Khối ngành Công nghệ thông tin
NGÀNH TUYỂN SINH

hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học – Tài liệu text

hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.87 MB, 116 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

LÊ THỊ THU HÀ

HỆ THỐNG THÔNG TIN
QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC

LUÂN VĂN THẠC SĨ

Hà Nội – 2009

2

MỤC LỤC

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ 5
MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH YÊU CẦU BÀI TOÁN HỆ THỐNG THÔNG TIN
QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC VIỆT NAM 7
1.1. Khảo sát hiện trạng 7
1.1.1. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục 7
1.1.2. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay 10
1.1.3. Cơ cấu quản lý giáo dục ở Việt Nam hiện nay 13
1.1.4. Mô hình HTTT quản lý giáo dục bậc tiểu học hiện tại ở Việt Nam 14
1.1.5. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và khả năng đáp ứng yêu cầu quản
lý của hệ thống giáo dục bậc tiểu học Việt nam hiện nay 16
1.1.6. Yêu cầu của hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học Việt Nam
trong hiện tại và tương lai 19

1.2. Định hướng khắc phục 21
1.2.1. Định hướng về cơ chế chính sách trong quản lý giáo dục 21
1.2.2. Định hướng về công nghệ 21
1.2.3. Xác định ý tưởng và Yêu cầu xây dựng HTTT quản lý đáp ứng yêu cầu
đổi mới hệ thống quản lý giáo dục tiểu học Việt Nam 23
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU QUY TRÌNH PHÂN TÍCH THIẾT KẾ
HỆ THỐNG THÔNG TIN HƯỚNG CẤU TRÚC 25
2.1. Khái quát về phương pháp phân tích và thiết kế hướng cấu trúc 25
2.1.1. Các ưu điểm của Phân tích thiết kế hướng cấu trúc so với các phương
pháp khác 25
2.1.2. Nguyên tắc thiết kế theo chu trình 27
2.1.3. Các mô hình phát triển HTTT cơ bản nhất 28
2.1.4. Một số khái niệm liên quan đến phương pháp phân tích hướng chức
năng (dùng trong đề tài này) 32
2.2. Quy trình phát triển một HTTT theo hướng có cấu trúc 37
2.2.1. Tiến trình tổng quát phát triển HTTT 37
2.2.2. Mô hình của không gian phát triển một hệ thống 39
2.2.3. Các giai đoạn của phân tích thiết kế một HTTT 40
3

CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH CÁC YÊU CẦU NGHIỆP VỤ CỦA
HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC 47
3.1. Phân tích yêu cầu của HTTT quản lý giáo dục bậc tiểu học 47
3.1.1. Phân tích và xây dựng hệ thống mã trường chuẩn cho bậc tiểu học
trong toàn quốc 47
3.1.2. Lưu đồ vận hành PEMIS cấp phòng 49
3.1.3. Lưu đồ vận hành PEMIS cấp Sở và cấp Bộ 50
3.1.4. Các bảng biểu nghiệp vụ 51
3.2. Phân tích các yêu cầu chức năng 58

3.2.1. Sơ đồ ngữ cảnh của hệ thống 58
3.2.2. Sơ đồ phân rã chức năng 58
3.2.3. Bảng cân đối ma trận thực thể – chức năng 61
3.2.4. Phân tích xử lý: Các sơ đồ luồng dữ liệu các cấp 63
3.3. Phân tích dữ liệu 66
3.3.1. Xác định các thực thể và các thuộc tính 66
3.3.2. Xác định các bảng danh mục dữ liệu 70
3.3.3. Xác định các mối quan hệ 72
CHƯƠNG 4: THIẾT KẾ HTTT QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC 75
4.1. Thiết kế cơ sở dữ liệu logic: Sơ đồ E_R 75
4.2. Thiết kế cơ sở dữ liệu vật lý 76
4.3. Thiết kế các báo cáo đầu ra 82
4.4. Xác định sơ đồ luồng dữ liệu hệ thống 88
4.5. Xác định các giao diện và hệ thống thực đơn 89
4.6. Mô hình kiến trúc hệ thống 94
CHƯƠNG 5: PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH ỨNG DỤNG 95
5.1. Môi trường thử nghiệm 95
5.2. Cài đặt chương trình 95
5.3. Kết quả thử nghiệm – Một số giao diện chụp từ chương trình 95
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU KHAM KHẢO 103
PHỤ LỤC 104
Phụ lục 1: DANH MỤC MÃ TỈNH 104
Phụ lục 2: DANH MỤC MÃ HUYỆN 105
4

Phụ lục 3: Danh sách 54 dân tộc sinh sống tại Việt Nam 115

BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT Chữ viết tắt Tên đầy đủ
1 CNTT Công nghệ thông tin
2 CSDL Cơ sở dữ liệu
3 DFD Data Flow Diagram
Biểu đồ luồng dữ liệu
4 EMIS Education Management Information System
Hệ thống thông tin quản lý giáo dục
5 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
6 HT Hệ thống
7 HTTT Hệ thống thông tin
8 NSD Người sử dụng
9 PT_TK Phân tích – Thiết kế

5

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay ………… ………
11

Hình 1.2. Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục Việt Nam………… ……………
12

Hình 1.3. Mô hình quản lý ngành của nhà trường………… ………………
14

Hình 2.1. Mô hình thác nước ……………………………………………………

35

Hình 2.2. Dãy các sự kiện của khuôn cảnh làm bản mẫu……………………
38

Hình 2.3. Cách tiếp cận thực tế nhất cho việc phát triển các hệ thống và
phần mềm có quy mô lớn ………………………………………………………
39

Hình 2.4. Sơ đồ các chiều của không gian phát triển hệ thống………….….

50

Hình 2.5. Các giai đoạn Phân tích-Thiết kế một HTTT……………………
51

Hình 2.6. Quá trình phát triển một HTTT……………………………………
52

Hình 2.7. Quy trình phân tích và thiết kế HTTT hướng cấu trúc…………
58

Hình 3.1. Sơ đồ ngữ cảnh của hệ thống………… ……………………… …
71

Hình 3.2. Sơ đồ phân rã chức năng………… ……………………………….
73

Hình 3.3. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 0………… ……………………………
76

Hình 3.4. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 1 của tiến trình Quản lý danh mục…
77

Hình 3.5. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 1 của tiến trình Quản lý Trường học
78

Hình 3.6. Mô hình quan hệ dữ liệu………… …………………………
87

Hình 4.1. Mô hình thực thể………… …………………………………
88

Hình 4.2. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “1. Quản lý danh mục” ………….
101

Hình 4.3. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “2. Quản lý trường tiểu học” …
102

Hình 4.4. Mô hình kiến trúc hệ thống…………………………………………

107

6

MỞ ĐẦU

Ngày nay tin học đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành
kinh tế trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Khoa học máy tính đang
phát triển với tốc độ ngày càng nhanh chóng và xâm nhập ngày càng sâu vào
mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội, quản lý nhà nước, quản lý
doanh nghiệp,
Một trong những lĩnh vực đang được ứng dụng tin học hóa rất phổ biến ở
nước ta là lĩnh vực quản lý. Tin học hóa trong quản lý đã giúp cho các nhà quản
lý điều hành công việc một cách khoa học, chính xác, hiệu quả.
Quản lý hệ thống thông tin giáo dục bậc tiểu học tại Việt Nam là một
trong những công việc tương đối phức tạp, tốn nhiều thời gian và công sức, đòi
hỏi phải thường xuyên theo dõi chính xác một số lượng thông tin rất lớn, phục
vụ nhiều đối tượng khác nhau. Chính vì vậy, tin học hóa trong lĩnh vực quản lý
giáo dục là một yêu cầu tất yếu.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Hệ thống thông tin quản lý
giáo dục bậc tiểu học”, với mục đích nghiên cứu phương pháp luận và quy trình
phân tích thiết kế một Hệ thống thông tin (HTTT) quản lý thích hợp nhất cho
giáo dục bậc tiểu học. Trên cơ sở đó sẽ thử nghiệm phát triển một HTTT đáp
ứng các yêu cầu đổi mới, sau đó sẽ rút kinh nghiệm để hoàn thiện và mở rộng hệ
thống lớn hơn phát triển mới các hệ thống tương tự trong ngành.
Luận văn có bố cục như sau:
Mở đầu:
Chương 1: Xác định yêu cầu bài toán Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc

tiểu học Việt Nam.
Chương 2: Giới thiệu quy trình phân tích thiết kế HTTT hướng cấu trúc.
Chương 3: Phân tích các yêu cầu nghiệp vụ của Hệ thống thông tin quản lý giáo
dục bậc tiểu học
Chương 4: Thiết kế Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học.
Chương 5: Phát triển (thử nghiệm) chương trình ứng dụng.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
7

CHƯƠNG 1: XÁC ĐỊNH YÊU CẦU BÀI TOÁN HỆ THỐNG THÔNG
TIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC VIỆT NAM

1.1. Khảo sát hiện trạng
1.1.1. Sơ lược quá trình phát triển giáo dục
Giáo dục Việt Nam trong thời phong kiến
Kể từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới khi Ngô Quyền xưng vương,
đánh tan quân Nam Hán, chấm dứt hơn nghìn năm Bắc thuộc, hầu như không có
tài liệu nói về giáo dục (với nghĩa hẹp là dạy và học chữ). Tuy nhiên, căn cứ vào
việc sử sách ca ngợi công lao của thái thú Sỹ Nhiếp mở mang việc học tại Giao
Chỉ và một số đoạn nói về một vài người Việt đỗ đạt và làm quan ở phương Bắc,
có thể nói trong thời Bắc thuộc đã có một tầng lớp người Việt biết chữ [3]. Hơn
nữa, cùng với việc du nhập đạo Phật, chắc chắn chùa chiền phải là nơi dạy chữ
để đào tạo các nhà sư và truyền bá kinh kệ.
Bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ hai, cùng với việc xây dựng và bảo vệ đất
nước, tổ tiên ta đã dành nhiều công sức phát triển nền giáo dục dân tộc. Cơ sở
giáo dục đầu tiên của nhà nước phong kiến Việt Nam (được ghi nhận trong sử
sách) là Quốc Tử Giám Thăng Long, do vua Lý Nhân Tông cho thành lập vào

năm 1076. Sau này, triều Nguyễn đóng đô tại Phú Xuân, đã mở Quốc Tử Giám
tại Huế. Ngày nay, Quốc Tử Giám Thăng Long được xem là trường đại học đầu
tiên của Việt Nam. Sau khi mở mang việc dạy học ở kinh đô, dần dần nhà nước
phong kiến chú ý đến việc tổ chức hoạt động giáo dục ở địa phương. Năm 1397,
thời vua Trần Thuận Tông, triều đình cho đặt học quan ở các lộ, phủ lớn (đơn vị
hành chính tương đương với cấp tỉnh ngày nay) để lo việc giáo dục [3]. Đến thế
kỷ XV – XVI, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển rực rỡ. Các phủ, lộ đều có
trường công [6].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thời phong kiến, bên cạnh một số
lượng không nhiều các trường công, tại nhiều làng xã, đã có những gia đình mời
thầy đến ở trong nhà, dạy con em mình và thanh thiếu niên trong làng. Nhà chủ
chịu trách nhiệm chu cấp cho thầy. Như vậy, từ xa xưa dạy học đã là một nghề.
Từ ngày độc lập đến kháng chiến thứ nhất thắng lợi (1945-1954)
Sau khi nhân dân giành được chính quyền và tuyên bố nền độc lập của đất
nước, ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời (3-9-
1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “chống giặc đói, chống giặc dốt,
8

chống giặc ngoại xâm” là ba nhiệm vụ trọng yếu của Chính phủ và nhân dân ta
lúc đó [1]. Ngày 6-9-1945, Người đã gửi thư cho học sinh nhân dịp khai giảng
năm học 1945-1946, khẳng định sự ra đời của một nền giáo dục mới với sứ
mệnh phục vụ công cuộc giữ gìn độc lập và phục hưng đất nước, trong đó chỉ rõ
mục đích học tập của thế hệ trẻ mà cũng là nhiệm vụ chiến lược của nền giáo
dục mới là làm cho “non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp”, “dân tộc Việt Nam
sánh vai với các cường quốc năm châu”[1].
Song song với việc tổ chức để các trường mở cửa, tiếp tục công việc
giảng dạy, học tập, Bộ Giáo dục cố gắng giúp Chính phủ kiến tạo cơ sở pháp lý
cho chính sách giáo dục của chế độ mới. Năm 1946, trong bối cảnh phải tập
trung đối phó với mưu mô gây chiến của các thế lực thực dân, Chính phủ đã ban
hành hai sắc lệnh: số 146-SL và số 147-SL. [1] Nội dung chủ yếu của hai sắc

lệnh này là:
(i) Khẳng định tôn chỉ của nền giáo dục nước nhà là phụng sự lý tưởng
quốc gia và dân chủ; ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục là: dân tộc, khoa
học, đại chúng.
(ii) Xác định cơ cấu của nền giáo dục mới, sau giáo dục ấu trĩ (tiền học
đường), có ba cấp học:
Đệ nhất cấp, là bậc học cơ bản, thực hiện trong 4 năm học.
Đệ nhị cấp, có hai ngành: (i) ngành học tổng quát gồm hai bậc: bậc phổ
thông 4 năm và bậc chuyên khoa 3 năm; (ii) ngành học chuyên môn, gồm hai
bậc: bậc thực nghiệm 1 năm và bậc chuyên nghiệp từ 1-3 năm (tuỳ theo ban).
Đệ tam cấp, có đại học (gồm các ban: văn khoa, khoa học, pháp lý ) và
cao đẳng chuyên môn, sinh viên học ít nhất 3 năm. Tiếp nối đại học là các
“nghiên cứu viện”.
Song song với ba cấp học là ba cấp của ngành sư phạm, gồm sư phạm sơ
cấp, sư phạm trung cấp, sư phạm cao cấp.
(iii) ấn định những điều khoản pháp lý để thực hiện bậc học cơ bản: tất cả
trẻ em từ 7-13 tuổi đều có thể đến trường, không phải trả tiền học và từ năm
1950 sẽ là bậc học cưỡng bách.
Giáo dục Việt Nam trong những năm đất nước bị tạm thời chia cắt-
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2)
Ở miền Bắc
Sau khi hoà bình được lập lại, trên miền Bắc, chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã tiếp quản giáo dục ở vùng mới giải phóng và tích cực chuẩn bị
cho một cuộc cải cách giáo dục (thứ hai) trong bối cảnh vừa phục hồi kinh tế,
xây dựng miền Bắc vừa đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.
9

Thông qua cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, hệ thống giáo dục phổ
thông 12 năm tại vùng mới được giải phóng và hệ thống giáo dục phổ thông 9
năm ở vùng tự do đã được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm

(cấp I có 4 lớp, cấp II có 3 lớp, cấp III có 3 lớp)
1
. Hệ thống này ít nhiều mô
phỏng theo hệ thống giáo dục của Liên Xô lúc đó.
Để đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, Chính phủ chủ trương “Tận lực
phát triển giáo dục phổ thông”. Đến cuối kỳ kế hoạch 5 năm (1961-1965), mạng
lưới trường lớp được mở rộng: phần lớn các xã có trường cấp I; hai hoặc ba xã
có một trường cấp II; phần lớn các huyện có trường cấp III. Loại trường vừa dạy
tri thức phổ thông, vừa dạy kỹ thuật sản xuất ra đời như trường phổ thông công
nghiệp ở thành phố, trường phổ thông nông nghiệp ở nông thôn, trường thanh
niên dân tộc vừa học vừa làm ở các tỉnh miền núi. Thực hiện chủ trương của
Chính phủ, ở hầu hết các xã trên miền Bắc, nhân dân thành lập “Ban bảo trợ học
đường”, huy động sức người, sức của xây dựng các trường cấp I, cấp II, đề cử
người ở địa phương làm giáo viên, tự định mức đóng góp để trả lương thầy, từ
đó xuất hiện hình thức trường dân lập. Chính phủ quy định: giáo viên dân lập và
giáo viên quốc lập hưởng mọi chính sách, chế độ như nhau, chỉ khác tiền lương
của giáo viên dân lập do ngân sách địa phương đài thọ, có sự hỗ trợ thích đáng
của nhà nước [1].
Ở miền Nam
Trong thời kỳ 1954-1975, ở vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát,
cũng như về sau này ở vùng giải phóng, hoạt động giáo dục vẫn diễn ra để đáp
ứng nhu cầu học tập của người dân và đảm nhiệm chức năng đào tạo nhân lực.
Tuy nhiên, hoạt động giáo dục ở hai vùng có đặc điểm riêng, thậm chí đối
nghịch nhau.
Ở vùng do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, nền giáo dục chuyển dần từ
chỗ chịu tác động và ảnh hưởng của nền giáo dục Âu Pháp sang chịu tác động
và ảnh hưởng của nền giáo dục Bắc Mỹ. Hệ thống giáo dục phổ thông trải qua
một vài lần thay đổi, song vẫn theo cơ cấu khung: tiểu học (5 năm), trung học
cấp thấp (4 năm), trung học cấp cao (3 năm) gồm nhiều ban.
Ở vùng giải phóng, Bộ Giáo dục trong Chính phủ cách mạng lâm thời

miền Nam Việt Nam đã ban hành chương trình phổ thông 12 năm, với loại sách
giáo khoa khác hẳn sách giáo khoa dùng trong vùng tạm chiếm. Bộ chương trình
và sách giáo khoa này có nhiều cải tiến cả về nội dung và phương pháp so với
chương trình và sách giáo khoa 10 năm ở miền Bắc [1].

1
Thực chất, chương trình giáo dục phổ thông còn có lớp vỡ lòng, dạy học sinh tập đọc, tập viết trước khi vào lớp
1.
10

Thời kỳ từ 1975 đến 1986 – Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba
Trong khi thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt đối với giáo dục
miền Nam và tiếp tục phát triển giáo dục ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ cũng
khẩn trương chuẩn bị cho một cuộc cải cách giáo dục nhằm tiến tới một nền giáo
dục quốc dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Ngày 11-1-1979, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành
Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, [1] [2] theo đó, những định
hướng có tính nguyên tắc cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba này là:
Về mục tiêu giáo dục: Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ cho
đến lúc trưởng thành nhằm tạo cơ sở ban đầu cho con người phát triển toàn diện;
thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân nhằm tạo điều kiện thực hiện 3 cuộc cách
mạng (về quan hệ sản xuất, về khoa học – kỹ thuật và về văn hoá – tư tưởng);
đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động phù hợp yêu
cầu phân công lao động xã hội [1] [2].
Về nội dung giáo dục: Hướng vào việc “Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện (đức, trí, thể, mỹ), tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập
thể, đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân…” [1]
[2]
Về nguyên lý giáo dục: Yêu cầu học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động, nhà trường gắn liền với xã hội [1] [2].

Về hệ thống giáo dục: Thay thế hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và
hệ thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới,
trong đó, trường cấp I và trường cấp II được sáp nhập thành trường phổ thông cơ
sở (chín năm), đồng thời chuẩn bị phân ban ở trung học phổ thông.
1.1.2. Hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay
Đối với cơ cấu hệ thống giáo dục, có nhiều cách xác định khác nhau. Ở
đây, khái niệm cơ cấu hệ thống chỉ giới hạn trong phạm vi phân chia cấp lớp/
trình độ đào tạo kèm theo đó là một số chú ý về phương thức giáo dục, loại hình
trường và việc phân bố trường/ lớp trên các địa bàn (thường được gọi là mạng
lưới trường/ lớp).
Về cơ cấu hệ thống giáo dục: Luật giáo dục 2005 quy định tại Điều 4
“Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên.” Như vậy, giáo dục thường xuyên vừa có thể hiểu như một phương thức
giáo dục, vừa có thể xem là một tiểu hệ thống/ phân hệ của hệ thống giáo dục
quốc dân.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống GD quốc dân bao gồm:
a) Giáo dục mầm non, có nhà trẻ và mẫu giáo;
11

b) Giáo dục phổ thông, có 3 cấp học: tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 5), trung
học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9), trung học phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12);
c) Giáo dục nghề nghiệp, gồm 3 trình độ đào tạo: sơ cấp, trung cấp (trung
cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề), cao đẳng;
d) Giáo dục đại học, gồm 4 trình độ đào tạo: cao đẳng, đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ.
Về mạng lưới trường/ lớp: Theo nguyên tắc phân bố trường gần dân, đến
nay trên các địa bàn dân cư đều có các cơ sở giáo dục. Cụ thể là:
Mỗi xã, phường hoặc thị trấn đều có ít nhất một trường mầm non, một
trường tiểu học, một trường trung học cơ sở hoặc một trường liên cấp tiểu học
và trung học cơ sở (hình thức này chỉ có ở vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó

khăn); phần lớn các xã có trung tâm học tập cộng đồng.
Mỗi quận, huyện, thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh đã có một hoặc một số
trường trung học phổ thông, có một trung tâm giáo dục thường xuyên của
huyện. Các thị xã, các quận và nhiều huyện đã có trung tâm kỹ thuật tổng hợp-
hướng nghiệp. Các huyện miền núi, hải đảo đều có một trường trung học cơ sở
nội trú dành cho học sinh dân tộc thiểu số
2
và trường phổ thông có nhiều cấp
học.
Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có một trường trung học
phổ thông chuyên dành cho học sinh xuất sắc trong việc học tập một trong các
môn học, có trường trung cấp hoặc/và một trường cao đẳng (junior college), một
trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh. Các tỉnh miền núi và các tỉnh có
nhiều huyện miền núi đều có trường trung học phổ thông nội trú dành cho học
sinh dân tộc thiểu số. Một số tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương còn có
trường năng khiếu nghệ thuật, trường năng khiếu thể dục-thể thao và trường
dành cho người khuyết tật, tàn tật.
Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục:
Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện
đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học.
Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư
duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng
thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.

2
Cấp trung học cơ sở
12

Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay

13

1.1.3. Cơ cấu quản lý giáo dục ở Việt Nam hiện nay
Khái niệm quản lý được đề cập ở đây bao gồm cả quản lý nhà nước và
quản lý chuyên môn. Quản lý nhà nước, ở cấp vĩ mô, gồm: xây dựng và chỉ đạo
thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách giáo dục; ban hành và tổ
chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật về giáo dục [4].

Hình 1.2: Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục Việt Nam

Theo Luật Tổ chức chính phủ, Luật Giáo dục và sự phân công của Chính
phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý nhà nước về giáo dục tiền học đường, giáo
dục phổ thông, giáo dục đại học và một phần giáo dục nghề nghiệp (trung cấp
chuyên nghiệp); Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý giáo dục nghề
nghiệp (trừ trung cấp chuyên nghiệp).
Theo Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Giáo dục và theo
sự phân cấp của chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước,
bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học của các trường công lập thuộc phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương; đồng thời, kiểm soát các trường
ngoài công lập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Phạm vi quản lý
trong lĩnh vực giáo dục của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và uỷ ban nhân dân cấp
huyện được phân định như sau: cấp tỉnh quản lý các trường trung học phổ thông,

14

các trường trung cấp và trường dạy nghề, các trường cao đẳng của tỉnh, các
trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh ; cấp huyện quản lý các trường tiểu
học, trung học cơ sở, trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp, trung tâm giáo
dục thường xuyên và trung tâm dạy nghề của huyện, Cơ quan chuyên môn
giúp uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý về giáo dục là sở giáo dục và đào tạo; cơ
quan chuyên môn giúp uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý về giáo dục là phòng
giáo dục và đào tạo.
Quản lý nhà nước về giáo dục: Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu
chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý
chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng
cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục: Cán bộ quản lý giáo
dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động
giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng
cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm
cá nhân.
Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo
đảm phát triển sự nghiệp giáo dục.
1.1.4. Mô hình HTTT quản lý giáo dục bậc tiểu học hiện tại ở Việt Nam
Những người làm về giáo dục phổ thông cũng giống như xây một ngôi
nhà, trong đó giáo dục tiểu học là nền móng. Mục tiêu giáo dục của cấp tiểu học
là giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học lên cấp trung học cơ sở. Nếu giáo dục phổ thông có chất lượng thấp,

học sinh “rỗng” kiến thức cơ bản một cách hệ thống thì không thể nói xây dựng
được nền giáo dục có chất lượng tiên tiến và hiện đại. Do vậy, những năm gần
đây Đảng và nhà nước ta rất quan tâm chú trọng đến giáo dục tiểu học.
Cấp tiểu học gồm 5 lớp, thu nhận trẻ em từ 6 tuổi, nếu trẻ không lưu ban,
bỏ học thì đến 11 tuổi sẽ tốt nghiệp tiểu học.
Hệ thống trường tiểu học: Như vậy, hệ thống giáo dục bậc tiểu học là hệ
thống con của HTTT quản lý giáo dục hiện tại ở Việt Nam.
Mô hình trường tiểu học được tổ chức theo các loại hình công lập (là
trường mà cơ sở vật chất, ngân sách do nhà nước bảo trợ), trường bán công (là
trường của chính phủ, nhưng nhà trường phải tự chủ về các khoản thu, chi),
trường trường dân lập, và tư thục (Do cá nhân hay một nhóm cá nhân xin phép

15

thành lập và tự đầu tư). Các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục gọi chung là cơ sở
giáo dục ngoài công lập). Trường tiểu học bán công, dân lập, tư thục gọi chung
là trường tiểu học ngoài công lập. Như vậy, hệ thống trường tiểu học được chia
ra thành hai loại hình chính là loại hình trường công lập và loại hình ngoài công
lập.
Ngoài các trường tiểu học dành cho trẻ bình thường còn có các loại
trường tiểu học chuyên biệt như: Trường tiểu học dân tộc bán trú; Trường tiểu
học dân tộc nội trú; Trường tiểu học dành cho trẻ em bị thiệt thòi; Trường tiểu
học dành cho trẻ em tàn tật.
Cơ sở giáo dục tiểu học khác gồm: Lớp tiểu học gia đình do cha mẹ học
sinh có đủ năng lực và trình độ chuyên môn tự nguyện thành lập và trực tiếp
giảng dạy; Lớp tiểu học linh hoạt do các cá nhân, tổ chức nhà nước và tổ chức
xã hội tự nguyện thành lập cho những trẻ em không có điều kiện theo học ở các
trường, lớp chính quy; Lớp tiểu học dành cho trẻ em bị thiệt thòi, trẻ em tàn tật.
Về quản lí nhà nước: Hệ thống giáo dục phổ thông ở nước ta nói chung

và hệ thống giáo dục Tiểu học nói riêng, được quản lý phân cấp theo ngành dọc.
Mỗi cấp quản lý đều có nhu cầu thông tin quản lý cụ thể, Bộ là cơ quan quản lý
giáo dục cấp cao nhất, là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về giáo dục và đào tạo, đề ra những chủ trương, chính sách và kiểm
tra, thanh tra,…dưới Bộ là cấp địa phương như các Sở giáo dục, mỗi Sở giáo
dục lại quản lý các Phòng giáo dục trực thuộc sở và cấp thấp nhất là các trường.
Cấp địa phương có nghĩa vụ thực hiện và báo cáo tình hình thực hiện các chỉ đạo
của cấp trên.

Hình 1.3: Mô hình quản lý ngành của nhà trường
Như vậy, các Trường tiểu học (công lập hoặc ngoài công lập) do Phòng
Giáo dục và Đào tạo quản lý, chỉ đạo trực tiếp. Các cơ sở giáo dục tiểu học khác
được một trường tiểu học công lập bảo trợ và quản lý theo quyết định của Chủ

16

tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện) trên cơ sở đề nghị của Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo.
1.1.5. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và khả năng đáp ứng yêu cầu
quản lý của hệ thống giáo dục bậc tiểu học Việt nam hiện nay
Trong nhiều năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chăm lo tới sự
nghiệp phát triển Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT). Giáo dục và đào tạo được coi
là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân. Cùng với Khoa học
và Công nghệ, GD&ĐT là nhân tố quyết định việc tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội.
Ngoài việc huy động sự đóng góp của nhân dân, chủ yếu là đối với các gia
đình có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi, trong những năm đổi mới vừa qua,
Chính phủ không ngừng tăng ngân sách giáo dục. So với các ngành khác, giáo
dục đã được ưu tiên. Cùng với việc ngân sách giáo dục không ngừng tăng lên,

cơ cấu chi tiêu công cho các cấp học và trình độ đào tạo cũng đã thay đổi theo
hướng tăng phần trăm chi cho giáo dục phổ thông, giáo dục tiền học đường (gọi
chung là khối giáo dục) và giảm phần trăm chi cho giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học (gọi chung là khối đào tạo) thể hiện quan điểm của chính phủ, ưu
tiên cho giáo dục cơ sở và giáo dục ở địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn, vùng cư
trú của các dân tộc thiểu số.
Quán triệt quan điểm GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, để tạo sự chuyển
biến cơ bản, toàn diện trong phát triển sự nghiệp giáo dục, trước hết cần phải đổi
mới cơ bản công tác quản lý giáo dục. Để quản lý tốt các hoạt động xã hội cần
phải có công cụ và phương tiện, mà một trong số các công cụ hữu hiệu đó là hệ
thống thông tin quản lý.
Ngày nay, không ai dám phủ nhận vai trò của Công nghệ thông tin
(CNTT). Công nghệ thông tin đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ
phát triển cao và được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực. Và ứng dụng của
nó trong quản lý giáo dục từ lâu đã không còn là công việc mới mẻ, nó là công
cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới
quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống giáo dục tiểu học có qui mô lớn,
được phân bố rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Nhưng ở bậc học này, do
đặc thù mục tiêu và quản lý giáo dục, công việc này dường như đang đi những
bước khởi đầu.
Từ thực tiễn ở các địa phương (các tỉnh) cho thấy, mặc dù còn có nhiều
khó khăn (như cơ sở vật chất nghèo nàn, giáo viên tin học nói riêng, và giáo viên
tiểu học có hiểu biết về CNTT để ứng dụng được trong giảng dạy và quản lý vẫn

17

còn hạn chế,…), nhưng việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào quản lý
giáo dục ở bậc tiểu học đã được một số địa phương mạnh dạn triển khai, nhưng

cũng chỉ tập trung ở một số hoạt động: soạn thảo văn bản, báo cáo, quản lý
điểm, quản lý học sinh, thiết kế giáo án điện tử mà chưa được tổ chức một
cách có hệ thống. Số trường tiểu học sử dụng CNTT để quản lý hồ sơ, thời khóa
biểu, điểm kiểm tra của giáo viên và học sinh cũng mới chỉ tập trung ở các
thành phố lớn: Hà Nội 270/273 trường, TP Hồ Chí Minh hơn 300 trường/439
trường, Quảng Ninh 102/157 trường, hoặc ở các trường đóng tại thị trấn, trung
tâm huyện.
Việc áp dụng những thành tựu của CNTT vào quản lý không chỉ hạn chế
ở các cấp địa phương, mà ngay tại Bộ giáo dục và Đào tạo cũng vẫn chưa có
một hệ thống thông tin vận hành, và thu thập dữ liệu về giáo dục tiểu học một
cách chi tiết và chính thức từ các Phòng giáo dục và Sở giáo dục, cũng như các
phân tích dữ liệu chi tiết ở cấp trung ương. Nhiều thông tin quản lý về giáo dục
bậc tiểu học hiện được lưu trữ trên khắp Việt Nam. Thông tin này về hàng chục
triệu học sinh, hàng triệu giáo viên và cán bộ và hàng vạn trường học và các cơ
sở giáo dục khác.
Bộ cũng chưa sử dụng hệ thống kho dữ liệu và đang tổng hợp thông tin và
dữ liệu một cách thủ công. Công cụ thu thập chủ yếu là các phiếu điều tra, được
nhập bằng tay, chưa được vi tính hóa và gửi qua đường công văn. Phần lớn dữ
liệu được thu thập và lưu trữ bằng hệ thống văn bản giấy tờ. Các công cụ CNTT
đơn giản như bảng tính (excell) cũng được sử dụng rộng rãi nhằm lưu trữ thông
tin quản lý quan trọng. Các nhà quản lý các cấp cho biết, các hệ thống hiện nay
không lưu trữ được tất cả các thông tin cần thiết để hỗ trợ công tác quản lý.
Khi cần số liệu để phục vụ nhu cầu quản lý, phân bổ nguồn lực và lập
chính sách, ví dụ như lập kế hoạch và dự thảo ngân sách, nghiên cứu và phân
tích chính sách, giám sát và đánh giá, phân bổ tài chính cho các trường,… mà số
liệu này không có sẵn. Bộ giáo dục phải gửi các phiếu điều tra về Sở giáo dục,
Sở lại gửi về Phòng giáo dục, cán bộ phòng lấy thông tin từ Hiệu trưởng các
trường Tiểu học (Trong đó có rất nhiều điểm trường ở miền núi như tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Sơn La,… hiệu trưởng từ điểm trường chính đến điểm trường
lẻ phải đi cả ngày mới tới, và phải đi bộ) rồi gửi lên Sở qua đường công văn

hoặc qua thư điện tử. Cuối cùng, Chuyên viên của Bộ phải tổng hợp số liệu của
các Sở, công việc này cũng lại phải nhập bằng tay. Công đoạn này rất tốn kém
thời gian, chi phí và công sức, không những thế đôi khi số liệu cũng chưa chính
xác và đầy đủ. Nhiều khi, số liệu chuyển lên đến Bộ thì đã muộn so với dự kiến.

18

Thu thập dữ liệu ở Bộ được tiến hành rời rạc. Các đợt thu thập dữ liệu
thường xuyên và thu thập dữ liệu khi có nhu cầu nảy sinh, rồi các đơn vị khác
nhau trực thuộc Bộ cũng thường xuyên thu thập dữ liệu phục vụ cho mục đích
riêng của mình. Đôi khi, hoạt động thu thập này chồng chéo với các hoạt động
khác. Nhiều hoạt động thu thập dữ liệu khác nhau như vậy dẫn tới khối lượng
công việc rất lớn, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý các trường, phòng giáo dục.
Các yêu cầu về dữ liệu và định nghĩa về dữ liệu thường hơi khác nhau nên gây
rất nhiều khó khăn cho các trường. Nó dẫn tới sự không thống nhất trong các
báo cáo vì các dữ liệu được thu thập không tương thích với nhau.
Từ năm 2002 đến 2004, dự án Hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo (SMoET)
đã được thực hiện thông qua nguồn tài trợ của Ủy ban châu Âu (EC). SMoET đã
xây dựng được một hệ thống thu thập các thông tin cơ bản về nhà trường, gọi là
EMIS (Education Management Information System), tạo ra các báo cáo tổng
hợp thống kê và các chỉ số giáo dục để giúp lãnh đạo Bộ trong việc đưa ra các
quyết định chiến lược về kế hoạch phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, phần mềm này đã bộc lộ một số hạn chế, đáng chú ý nhất là:
(i) cấu trúc dữ liệu chưa được tối ưu; (ii) phần mềm cơ sở dữ liệu sử dụng ở cấp
tỉnh phức tạp và khó để có thể duy trì và sử dụng
3
, hiện chỉ có một số tỉnh sử
dụng; (iii) phần mềm cơ sở dữ liệu cấp trung ương chưa từng được sử dụng bởi
Bộ GD&ĐT và kết quả là không có cơ sở dữ liệu về EMIS cấp quốc gia tồn tại.

Dự án giáo dục Tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC), với
kinh phí của Ngân hàng thế giới, được triển khai từ giữa năm 2003 đến nay, đã
phát triển một hệ thống thông tin dựa trên hệ thống thông tin EMIS của SMoET,
với mục đích tương tự mục đích của phần mềm EMIS, hệ thống thông tin của
PEDC chỉ dành riêng cho tiểu học, và đã được triển khai trên 62 tỉnh thành của
toàn quốc.
Bảng hỏi của phần mềm EMIS của dự án PEDC được xây dựng với sự
phối hợp chặt chẽ từ các cán bộ của Vụ Kế hoạch-Tài chính và Vụ Giáo dục
Tiểu học Bộ GD&ĐT. Dữ liệu trong phần mềm này bao gồm các thông tin có
trong “hồ sơ trường”. Hồ sơ trường là một tập hợp dữ liệu ở dạng tổng hợp, gồm
các thông tin chung về học sinh tiểu học theo 3 thời kỳ (đầu, giữa và cuối năm
học theo giới tính, dân tộc và độ tuổi); Các thông tin về điểm trường, Cơ sở vật
chất (CSVC), trang thiết bị, tài liệu giảng dạy, và cán bộ giáo viên. Các thông tin
này được thu thập mỗi năm một lần. Điểm mạnh của hệ thống này là các chỉ số
về mức chất lượng tối thiểu, các chỉ số về trường học hiện đã được chấp nhận

3
Báo cáo ‘Chương trình xây dựng năng lực thống kê giáo dục’: do các chuyên gia thuộc Viện
Thống Kê của UNESCO do EC tài trợ xây dựng, báo cáo dự thảo tháng 5 năm 2005.

19

như các chuẩn cho Vụ Kế hoạch –Tài chính đánh giá mức chất lượng trường
học, và nó còn được dùng để cung cấp các thông tin cho nhiều đơn vị quản lý có
liên quan như Vụ tiểu học, Ngân hàng thế giới,…
Phần mềm EMIS của dự án SMoET và dự án PEDC, mặc dù được mang
tên là Hệ thống thông tin quản lý giáo dục nhưng chưa được thiết kế như một
công cụ quản lý đầy đủ tất cả các hoạt động của trường học, mà chỉ đơn giản là

một công cụ thu thập định kỳ các báo cáo thống kê và các chỉ số giáo dục. Điểm
yếu hệ thống này là xây dựng phần mềm trên cơ sở dữ liệu Access, với giao diện
Visual Basic, thiết kế cơ sở dữ liệu chỉ lưu giữ được dữ liệu của từng năm học
một, và được cài đặt trên từng máy tính riêng lẻ.
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có
nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất
của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách
con người Việt Nam.
Vấn đề trăn trở không dễ khắc phục trong nay mai của giáo dục tiểu học,
là vẫn còn tồn tại quá nhiều điểm trường lẻ, theo điều tra của Dự án Giáo dục
Tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC) năm học 2007 – 2008, thì
nước ta có 38.834 điểm trường (trong đó có 15.602 điểm trường chính và 23.241
điểm trường lẻ); năm học 2008 – 2009 có 37.796 điểm trường( trong đó điểm
chính là 15.747, điểm trường lẻ là 22.049). Thực tế, những yếu kém của bậc học
này tập trung ở các điểm lẻ. Lý do bởi nhiều gia đình không đủ điều kiện cho
con em đi học, dân cư ở nhiều vùng, miền có điều kiện kinh tế – xã hội khó
khăn, địa hình phức tạp, sống thưa thớt, việc đi lại của học sinh rất khó khăn; cơ
sở vật chất phục vụ dạy học thiếu thốn, giáo viên thiếu, lại ít có điều kiện giao
lưu trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp xúc với các ứng
dụng công nghệ,…
1.1.6. Yêu cầu của hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học Việt Nam
trong hiện tại và tương lai
Tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục phổ thông. Quan tâm
chăm lo, tạo điều kiện toàn diện cho bậc học này sẽ tạo nền móng vững chắc lâu
dài cho cả hệ thống giáo dục nói chung.
Phân tích về mô hình quản lý giáo dục hiện nay, hầu hết các nhà nghiên
cứu giáo dục tại Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (Bộ GD-ĐT) đều có chung
một nhận định: Bước vào thế kỷ 21, toàn cầu hóa đã thúc đẩy giáo dục Việt Nam
phát triển theo định hướng hội nhập và cạnh tranh với nhiều loại hình đào tạo
ngoài công lập, trong khi đó phương thức quản lý giáo dục vẫn mang tính hành

20

chính bao cấp. Việc ứng dụng của khoa học và công nghệ vào quản lý vẫn chưa
được áp dụng rộng rãi, còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế.
Chúng ta đã cố gắng đổi mới, nhưng kết quả chưa được như mong đợi.
Theo tôi, một trong những nguyên nhân là chúng ta chưa tìm ra mô hình quản lý
phù hợp.
Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học ở Việt Nam theo tình
hình chung đó đã và đang chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và chưa đủ năng
lực hỗ trợ việc ra quyết định cho lãnh đạo ngành giáo dục một cách thật hiệu
quả. Vì vậy, việc xây dựng một chuẩn chung, xác định các yêu cầu tối thiểu về
dữ liệu cho công tác quản lý và lập kế hoạch, hợp thức hóa các hoạt động thu
thập dữ liệu, bớt đi các hệ thống đang vận hành song trùng, nâng cao độ tin cậy
của dữ liệu là cần thiết.
Giải pháp cho các vấn đề trên là phải xây dựng hệ thống thông tin liên cấp
được bắt nguồn từ cấp thấp nhất là trường học và liên thông lên các cơ quan
quản lý giáo dục cấp trên: Phòng – Sở – Bộ, phục vụ cho việc quản lý giáo dục
bậc tiểu học tại Việt Nam đang trở thành một đòi hỏi cấp bách.
Hệ thống này có chức năng thống kê như thu thập, lưu trữ, tổng hợp, cung
cấp các số liệu giáo dục kịp thời và tin cậy. Nó sẽ quản lý toàn bộ các thông tin
chung về trường học như:
 Con người (giáo viên, học sinh).
 Thông tin về khối lớp và lớp học.
 Trang thiết bị, cơ sở vật chất.
 Mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
 Tài liệu giảng dạy.
Đồng thời, hệ thống này còn tích hợp các phân hệ quản lý giáo dục chi tiết
đến từng lĩnh vực như:

1. Quản lý tài chính của nhà trường: Quản lý các khoản thu, chi, ngân sách
nhà nước,… tài sản cố định của nhà trường.
2. Quản lý Học sinh: Quản lý các thông tin đến từng hồ sơ học sinh như sơ
yếu lý lịch, tình trạng sức khỏe; Quản lý điểm, môn học, chất lượng, hạnh kiểm,
danh hiệu, kết quả kiểm tra và thi của từng học kỳ, hay thi học sinh giỏi các
cấp,…; Quá trình học tập của học sinh trong suốt bậc học tiểu học: nghỉ học, học
sinh chuyển đi, chuyển đến, lên lớp, lưu ban, bỏ học, khen thưởng, kỷ luật,…
3. Quản lý nhân sự nhà trường: Quản lý các thông tin chi tiết đến từng hồ
sơ cán bộ, giáo viên,…; Quản lý việc thuyên chuyển cán bộ; Quản lý lương; Quá
trình đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật,…

21

4. Quản lý công việc giảng dạy của nhà trường: Quản lý thời khóa biểu:
Tạo thời khóa biểu cho lớp học, cho giáo viên theo tuần, học kỳ của năm học;
Theo dõi, lập kế hoạch thay đổi giảng dạy; Quá trình thực hiện và chất lượng
giảng dạy.
1.2. Định hướng khắc phục
1.2.1. Định hướng về cơ chế chính sách trong quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục: Phân cấp, tăng cường tự chủ và trách nhiệm xã hội:
Bên cạnh việc góp phần tạo ra những thành công, công tác quản lý giáo dục, do
những thiếu sót của mình, cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến những
hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục. Vì vậy, để tạo ra sự chuyển biến cơ
bản trong phát triển giáo dục, cần phải tập trung đổi mới công tác quản lý giáo
dục, xem đây là khâu đột phá. [15]
Vì chất lượng giảng dạy và học tập của nhà trường là nguồn gốc chủ yếu
tạo nên chất lượng của một nền giáo dục, đồng thời nhà trường cũng là nơi phản
ánh đầy đủ nhất hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý giáo dục nên trên cơ
sở phát huy quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường, các cơ quan

quản lý giáo dục cần có trách nhiệm bảo đảm để công tác quản lý giáo dục bám
sát thực tế của nhà trường, lắng nghe tiếng nói của nhà giáo, của cha mẹ học
sinh và xã hội từ đó có những quyết định đúng đắn, phù hợp và khả thi. Để đáp
ứng yêu cầu này, cần khẩn trương hiện đại hoá công tác quản lý, nhanh chóng
thực hiện tin học hoá để thiết lập kênh trao đổi thông tin hai chiều, kịp thời và
tin cậy giữa cơ quan quản lý giáo dục với nhà trường, gia đình và xã hội cũng
như giữa nhà trường, nhà giáo, phụ huynh và học sinh.
Đổi mới căn bản chính sách sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng phẩm
chất và năng lực thực tế. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất lượng giáo dục. Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng và giám sát các hoạt động giáo dục.
Thực hiện phân cấp, tạo động lực và tính chủ động của các cơ sở giáo
dục. Tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường đi đôi với việc hoàn
thiện cơ chế công khai, minh bạch, bảo đảm sự giám sát của các cơ quan nhà
nước, đoàn thế và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông
trong quản lý giáo dục ở các cấp.
1.2.2. Định hướng về công nghệ
a. Những tồn tại, thách thức

22

Mặc dù được nhà nước quan tâm, song ứng dụng CNTT vào quản lý Nhà
nước của các cấp, các ngành nói chung, Bộ giáo dục nói riêng còn nhiều hạn
chế, chưa có sự phối hợp giữa cải cách hành chính với ứng dụng CNTT.
 Hạ tầng CNTT còn thiếu về số lượng và không đồng bộ.
 Hệ thống CSDL còn manh mún, thiếu tập trung, mức độ chia sẻ chưa cao.
 Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT còn hạn chế.
 Công tác quản lý Nhà nước về CNTT còn nhiều bất cập.
 Đầu tư cho phát triển Công nghiệp CNTT còn nhỏ lẻ, phân tán, kém hiệu

quả; đầu tư cho đào tạo CNTT chưa được quan tâm đúng mức.
b. Nguyên nhân
 Nhận thức của một số lãnh đạo và công chức tại các cấp quản lý về vị trí,
vai trò của CNTT chưa đúng mức.
 Hệ thống giáo dục tiểu học dàn trải trên khắp mọi miền đất nước, dân số
phân tán, diện tích rộng, do vậy phát triển hạ tầng gặp nhiều khó khăn.
 Cơ chế, chính sách ứng dụng và phát triển CNTT chưa cụ thể, chưa hấp
dẫn và chưa đồng bộ, chưa tạo được môi trường thuận lợi thúc đẩy ứng dụng
CNTT trong lĩnh vực giáo dục.
 Đầu tư cho ứng dụng CNTT vào quản lý giáo dục, chủ yếu dựa vào ngân
sách Trung ương, mặc dù ngân sách chi cho giáo dục dù có đều đặn được tăng
lên, song vẫn còn quá ít ỏi so với nhu cầu tổ chức quá trình giáo dục ở mức bình
thường.
 Thiếu quy hoạch tổng thể và một lộ trình khoa học trong việc ứng dụng và
phát triển CNTT.
c. Hướng khắc phục
 Để đổi mới việc quản lý giáo dục bậc tiểu học trong tình hình chung hiện
nay cần đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT vào các cấp quản lý từ nhà
trường lên Bộ giáo dục, cần phải xây dựng một cơ chế chính sách thỏa đáng.
 Hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp: Rà soát và hoàn thiện các văn
bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi
hỗ trợ ứng dụng và phát triển Công nghệ thông tin.
 Thực hiện tốt các chiến lược và quy hoạch: Xây dựng và thực hiện chiến
lược, quy hoạch ngành nhằm sử dụng hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn đầu tư.
 CNTT là động lực, là công cụ quan trọng hàng đầu thúc đẩy Công nghiệp
hóa-hiện đại hóa, do vậy cần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của CNTT đối
với phát triển kinh tế xã hội và Giáo dục.
 Ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông,
Internet.

23

 Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về CNTT.
 Hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút đầu tư, hỗ trợ phát triển và ứng dụng
CNTT trong lĩnh vực giáo dục.
 Đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT.
 Tăng cường hợp tác và liên kết trong nước và quốc tế về phát triển CNTT.
1.2.3. Xác định ý tưởng và Yêu cầu xây dựng HTTT quản lý đáp ứng yêu cầu
đổi mới hệ thống quản lý giáo dục tiểu học Việt Nam
Hiện nay, các hướng công nghệ đang ngày càng phát triển, các công cụ
của chúng đã khá hoàn thiện và đã phục vụ khá tốt cho việc phát triển một hệ
thống lớn. Quy trình phân tích và thiết kế một HTTT quản lý theo hướng cấu
trúc là một trong những công nghệ đang được các chuyên gia quan tâm và tin
dùng, đặc biệt là ở Việt Nam.
Từ những khó khăn, thuận lợi kể trên, đồng thời với mục tiêu thực hiện
tin học hóa công tác quản lý. Đề tài dự kiến xây dựng một hệ thống thông tin
liên cấp được bắt nguồn từ cấp thấp nhất là trường học và liên thông lên các cơ
quan quản lý giáo dục cấp trên: Phòng – Sở – Bộ.
Do trong khuôn khổ thời gian ngắn, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và
kiến thức của bản thân còn hạn chế, nên bước đầu luận văn chỉ phân tích, thiết
kế và xây dựng hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học có chức năng
thống kê, quản lý toàn bộ các thông tin chung về trường học, sau đó sẽ rút kinh
nghiệm để hoàn thiện và mở rộng ra các phân hệ quản lý giáo dục còn lại của hệ
thống.
Hệ thống thông tin quản lý Giáo dục bậc Tiểu học (Primary Education
Management Information System – PEMIS) phải được vận hành trên cả 4 cấp:
Bộ (MoET), Sở (DoET), Phòng (BoET), Trường và phải đáp ứng một cách đầy
đủ nhất nhu cầu quản lý thông tin và nghiệp vụ cho tất cả các đại diện quản lý
giáo dục bậc tiểu học.

Với mục tiêu như trên, luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề chính sau:
 Nghiên cứu phương pháp luận và quy trình phân tích thiết kế một HTTT
quản lý thích hợp nhất cho giáo dục bậc tiểu học. Trên cơ sở đó sẽ thử nghiệm
phát triển một HTTT đáp ứng các yêu cầu đổi mới đặt ra ở trên, sau đó sẽ rút
kinh nghiệm để hoàn thiện và mở rộng hệ thống lớn hơn phát triển mới các hệ
thống tương tự trong ngành.
 Xây dựng một hệ thống như cơ chế mã hóa để mỗi trường/điểm trường có
một mã duy nhất. Nếu thiết kế một cách linh hoạt, các hệ thống CNTT sẽ không
làm mất đi lợi ích của nó trong một môi trường mà các khuôn khổ và quy định
pháp lý liên tục thay đổi.

24

 Xây dựng CSDL phân tán theo từng cấp, và tại mỗi cấp sẽ lưu trữ dữ liệu
phù hợp với đặc tả dữ liệu của mình. Tại cấp Phòng sẽ lưu trữ dữ liệu của các
trường tiểu học thuộc Phòng quản lý, cấp Sở sẽ lưu giữ dữ liệu của tất cả các
trường tiểu học trong toàn tỉnh/thành. Và cấp Bộ sẽ lưu giữ dữ liệu của tất cả các
trường tiểu học trong toàn quốc. Quy trình tập hợp thông tin từ điểm
trường/trường lên phòng giáo dục, rồi lên Sở GD-ĐT và nộp về Trung ương (Bộ
GD-ĐT) là khoa học, không bị tổng quát hóa và lược bỏ qua các cấp khác nhau;
cho phép các cấp quản lý đều có khả năng tiếp cận với thông tin có cùng mức
độ chi tiết gốc khi điều tra (chi tiết nhất), chỉ khác nhau ở phạm vi và phương
thức khai thác theo các cấp độ.
Hệ thống giáo dục ở nước ta được quản lý thông qua nhiều cấp. Mỗi cấp
quản lý đều có nhu cầu thông tin quản lý cụ thể. Do vậy, phải xây dựng một hệ
thống cở sở dữ liệu (dạng quan hệ) liên thông 4 cấp, mà ở đó các phiên bản phần
mềm ở các cấp đều có thể vận hành và khai thác dữ liệu giáo dục dùng chung
phục vụ cho quy trình ra quyết định. Hiện tượng cát cứ thông tin vẫn đang là
hiện tượng phổ biến ở tất cả các cấp quản lý. Mỗi cơ quan, đơn vị cất giữ thông

tin riêng của mình thay vì chia sẻ với các đơn vị khác. Cơ sở dữ liệu trung tâm
sẽ là nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề này, dữ liệu ít nhất cần bao gồm là các dữ
liệu điển hình về học sinh, giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị, v.v. của nhà
trường.

25

CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU QUY TRÌNH PHÂN TÍCH THIẾT KẾ
HỆ THỐNG THÔNG TIN HƯỚNG CẤU TRÚC

Hiện nay có hai phương pháp phân tích thiết kế hệ thống cơ bản đang
được sử dụng là phương pháp hướng cấu trúc và phương pháp hướng đối tượng.
Mỗi phương pháp có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, vấn đề mà tôi

ưu tiên khi chọn lựa một phương pháp phân tích thiết kế hệ thống là: ổn định, ít
thay đổi, dễ sử dụng, có thể mô hình hóa một cách tổng quát nhất các vấn đề đặt
ra trong thực tế, có khả năng áp dụng cho lớp các bài toán phục vụ quản lý và có
khả năng chuyển thành chương trình sử dụng trong thực tế nhanh nhất.
Trên cơ sở yêu cầu trên, tôi chọn phương pháp PT-TK hệ thống thông tin
theo hướng có cấu trúc cho bài toán HTTT Quản lý giáo dục bậc tiểu học.
2.1. Khái quát về phương pháp phân tích và thiết kế hướng cấu trúc
2.1.1. Các ưu điểm của PT-TK hướng cấu trúc so với các phương pháp khác
Phân tích và thiết kế HTTT dựa trên máy tính bắt đầu từ những năm 1950.
Những công nghệ mới về phần cứng không ngừng phát triển cùng với nhiều vấn
đề mới của thực tế luôn nảy sinh trong quá trình phát triển HTTT. Điều này kéo
theo cách tiếp cận PT_TK hệ thống cũng thay đổi một cách phù hợp. So sánh
với nhiều cách tiếp cận khác, cách tiếp cận hướng dữ liệu có những đặc điểm nổi
trội sau:
1. Về tính lịch sử: Cách tiếp cận theo hướng dữ liệu gắn liền với sự phát
triển của một công nghệ mới là công nghệ về cơ sở dữ liệu (CSDL), đặc biệt
năm 1970 mô hình quan hệ của Codd ra đời.
2. Về bản chất: Tiếp cận định hướng dữ liệu là một chiến lược tổng thể
phát triển HTTT mà tập trung vào việc tổ chức các dữ liệu một cách lý tưởng
hơn là nghĩ đến việc sử dụng các dữ liệu ở đâu và khi nào.
3. Về cấu trúc: Quan tâm bình đẳng đến 2 thành phần dữ liệu và xử lý.
Kết quả của hệ thống không chỉ là sự tự động hoá các quá trình xử lý mà còn
bao gồm cả việc tổ chức dữ liệu, nâng cao năng lực của nhân viên và khả năng
truy nhập đến các dữ liệu và thông tin. Chú ý rằng xử lý chính là quá trình biến
đổi thông tin nhằm 2 mục đích: một là sản sinh thông tin theo những thể thức
quy định, hai là trợ giúp quyết định. Xử lý thường được tiến hành theo 1 quy tắc
quản lý nào đó và thường diễn ra theo một trật tự nhất định mà được gọi là thủ
TP. Hà Nội – 2009M ỤC LỤCBẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ 5M Ở ĐẦU 6CH ƯƠNG 1 : XÁC ĐỊNH YÊU CẦU BÀI TOÁN HỆ THỐNG THÔNG TINQUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC VIỆT NAM 71.1. Khảo sát thực trạng 71.1.1. Sơ lược quy trình tăng trưởng giáo dục 71.1.2. Hệ thống giáo dục Nước Ta lúc bấy giờ 101.1.3. Cơ cấu quản trị giáo dục ở Nước Ta lúc bấy giờ 131.1.4. Mô hình HTTT quản trị giáo dục bậc tiểu học hiện tại ở Nước Ta 141.1.5. Đánh giá những thuận tiện, khó khăn vất vả và năng lực phân phối nhu yếu quảnlý của hệ thống giáo dục bậc tiểu học Việt nam lúc bấy giờ 161.1.6. Yêu cầu của hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậc tiểu học Việt Namtrong hiện tại và tương lai 191.2. Định hướng khắc phục 211.2.1. Định hướng về chính sách chủ trương trong quản trị giáo dục 211.2.2. Định hướng về công nghệ tiên tiến 211.2.3. Xác định sáng tạo độc đáo và Yêu cầu kiến thiết xây dựng HTTT quản trị phân phối yêu cầuđổi mới hệ thống quản trị giáo dục tiểu học Nước Ta 23CH ƯƠNG 2 : GIỚI THIỆU QUY TRÌNH PHÂN TÍCH THIẾT KẾHỆ THỐNG THÔNG TIN HƯỚNG CẤU TRÚC 252.1. Khái quát về giải pháp nghiên cứu và phân tích và phong cách thiết kế hướng cấu trúc 252.1.1. Các ưu điểm của Phân tích phong cách thiết kế hướng cấu trúc so với những phươngpháp khác 252.1.2. Nguyên tắc phong cách thiết kế theo quy trình 272.1.3. Các quy mô tăng trưởng HTTT cơ bản nhất 282.1.4. Một số khái niệm tương quan đến chiêu thức nghiên cứu và phân tích hướng chứcnăng ( dùng trong đề tài này ) 322.2. Quy trình tăng trưởng một HTTT theo hướng có cấu trúc 372.2.1. Tiến trình tổng quát tăng trưởng HTTT 372.2.2. Mô hình của khoảng trống tăng trưởng một hệ thống 392.2.3. Các quá trình của nghiên cứu và phân tích phong cách thiết kế một HTTT 40CH ƯƠNG 3 : PHÂN TÍCH CÁC YÊU CẦU NGHIỆP VỤ CỦAHỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC 473.1. Phân tích nhu yếu của HTTT quản trị giáo dục bậc tiểu học 473.1.1. Phân tích và kiến thiết xây dựng hệ thống mã trường chuẩn cho bậc tiểu họctrong toàn nước 473.1.2. Lưu đồ quản lý và vận hành PEMIS cấp phòng 493.1.3. Lưu đồ quản lý và vận hành PEMIS cấp Sở và cấp Bộ 503.1.4. Các bảng biểu nhiệm vụ 513.2. Phân tích những nhu yếu tính năng 583.2.1. Sơ đồ ngữ cảnh của hệ thống 583.2.2. Sơ đồ phân rã công dụng 583.2.3. Bảng cân đối ma trận thực thể – công dụng 613.2.4. Phân tích giải quyết và xử lý : Các sơ đồ luồng tài liệu những cấp 633.3. Phân tích tài liệu 663.3.1. Xác định những thực thể và những thuộc tính 663.3.2. Xác định những bảng hạng mục tài liệu 703.3.3. Xác định những mối quan hệ 72CH ƯƠNG 4 : THIẾT KẾ HTTT QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC 754.1. Thiết kế cơ sở tài liệu logic : Sơ đồ E_R 754.2. Thiết kế cơ sở tài liệu vật lý 764.3. Thiết kế những báo cáo giải trình đầu ra 824.4. Xác định sơ đồ luồng tài liệu hệ thống 884.5. Xác định những giao diện và hệ thống thực đơn 894.6. Mô hình kiến trúc hệ thống 94CH ƯƠNG 5 : PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH ỨNG DỤNG 955.1. Môi trường thử nghiệm 955.2. Cài đặt chương trình 955.3. Kết quả thử nghiệm – Một số giao diện chụp từ chương trình 95K ẾT LUẬN 101T ÀI LIỆU KHAM KHẢO 103PH Ụ LỤC 104P hụ lục 1 : DANH MỤC MÃ TỈNH 104P hụ lục 2 : DANH MỤC MÃ HUYỆN 105P hụ lục 3 : Danh sách 54 dân tộc bản địa sinh sống tại Nước Ta 115B ẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮTTT Chữ viết tắt Tên đầy đủ1 CNTT Công nghệ thông tin2 CSDL Cơ sở dữ liệu3 DFD Data Flow DiagramBiểu đồ luồng dữ liệu4 EMIS Education Management Information SystemHệ thống thông tin quản trị giáo dục5 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo6 HT Hệ thống7 HTTT Hệ thống thông tin8 NSD Người sử dụng9 PT_TK Phân tích – Thiết kếDANH MỤC CÁC HÌNH VẼHình 1.1. Sơ đồ hệ thống giáo dục Nước Ta lúc bấy giờ … … … … … … … 11H ình 1.2. Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản trị giáo dục Nước Ta … … … … … … … … … 12H ình 1.3. Mô hình quản trị ngành của nhà trường … … … … … … … … … … 14H ình 2.1. Mô hình thác nước … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … 35H ình 2.2. Dãy những sự kiện của khuôn cảnh làm bản mẫu … … … … … … … … 38H ình 2.3. Cách tiếp cận trong thực tiễn nhất cho việc tăng trưởng những hệ thống vàphần mềm có quy mô lớn … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … 39H ình 2.4. Sơ đồ những chiều của khoảng trống tăng trưởng hệ thống … … … …. …. 50H ình 2.5. Các quá trình Phân tích-Thiết kế một HTTT … … … … … … … … 51H ình 2.6. Quá trình tăng trưởng một HTTT … … … … … … … … … … … … … … 52H ình 2.7. Quy trình nghiên cứu và phân tích và phong cách thiết kế HTTT hướng cấu trúc … … … … 58H ình 3.1. Sơ đồ ngữ cảnh của hệ thống … … … … … … … … … … … … … … 71H ình 3.2. Sơ đồ phân rã công dụng … … … … … … … … … … … … … … … …. 73H ình 3.3. Sơ đồ luồng tài liệu mức 0 … … … … … … … … … … … … … … … 76H ình 3.4. Sơ đồ luồng tài liệu mức 1 của tiến trình Quản lý hạng mục … 77H ình 3.5. Sơ đồ luồng tài liệu mức 1 của tiến trình Quản lý Trường học78Hình 3.6. Mô hình quan hệ tài liệu … … … … … … … … … … … … … … 87H ình 4.1. Mô hình thực thể … … … … … … … … … … … … … … … … … 88H ình 4.2. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “ 1. Quản lý hạng mục ” … … … …. 101H ình 4.3. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “ 2. Quản lý trường tiểu học ” … 102H ình 4.4. Mô hình kiến trúc hệ thống … … … … … … … … … … … … … … … … 107M Ở ĐẦUNgày nay tin học đã và đang được ứng dụng thoáng đãng trong mọi ngànhkinh tế trên quốc tế nói chung và ở Nước Ta nói riêng. Khoa học máy tính đangphát triển với vận tốc ngày càng nhanh gọn và xâm nhập ngày càng sâu vàomọi nghành khoa học, công nghệ tiên tiến, kinh tế tài chính, xã hội, quản trị nhà nước, quản lýdoanh nghiệp, Một trong những nghành nghề dịch vụ đang được ứng dụng tin học hóa rất phổ cập ởnước ta là nghành quản trị. Tin học hóa trong quản trị đã giúp cho những nhà quảnlý quản lý và điều hành việc làm một cách khoa học, đúng mực, hiệu suất cao. Quản lý hệ thống thông tin giáo dục bậc tiểu học tại Nước Ta là mộttrong những việc làm tương đối phức tạp, tốn nhiều thời hạn và sức lực lao động, đòihỏi phải tiếp tục theo dõi đúng mực một số lượng thông tin rất lớn, phụcvụ nhiều đối tượng người dùng khác nhau. Chính vì thế, tin học hóa trong nghành quản lýgiáo dục là một nhu yếu tất yếu. Xuất phát từ yếu tố nêu trên, tôi chọn đề tài “ Hệ thống thông tin quản lýgiáo dục bậc tiểu học ”, với mục tiêu nghiên cứu và điều tra phương pháp luận và quy trìnhphân tích phong cách thiết kế một Hệ thống thông tin ( HTTT ) quản trị thích hợp nhất chogiáo dục bậc tiểu học. Trên cơ sở đó sẽ thử nghiệm tăng trưởng một HTTT đápứng những nhu yếu thay đổi, sau đó sẽ rút kinh nghiệm tay nghề để hoàn thành xong và lan rộng ra hệthống lớn hơn tăng trưởng mới những hệ thống tựa như trong ngành. Luận văn có bố cục tổng quan như sau : Mở đầu : Chương 1 : Xác định nhu yếu bài toán Hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậctiểu học Nước Ta. Chương 2 : Giới thiệu quy trình tiến độ nghiên cứu và phân tích phong cách thiết kế HTTT hướng cấu trúc. Chương 3 : Phân tích những nhu yếu nhiệm vụ của Hệ thống thông tin quản trị giáodục bậc tiểu họcChương 4 : Thiết kế Hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậc tiểu học. Chương 5 : Phát triển ( thử nghiệm ) chương trình ứng dụng. Kết luận. Tài liệu tìm hiểu thêm. Phụ lục. CHƯƠNG 1 : XÁC ĐỊNH YÊU CẦU BÀI TOÁN HỆ THỐNG THÔNGTIN QUẢN LÝ GIÁO DỤC BẬC TIỂU HỌC VIỆT NAM1. 1. Khảo sát hiện trạng1. 1.1. Sơ lược quy trình tăng trưởng giáo dụcGiáo dục Nước Ta trong thời phong kiếnKể từ thời những vua Hùng dựng nước cho tới khi Ngô Quyền xưng vương, đánh tan quân Nam Hán, chấm hết hơn nghìn năm Bắc thuộc, phần nhiều không cótài liệu nói về giáo dục ( với nghĩa hẹp là dạy và học chữ ). Tuy nhiên, địa thế căn cứ vàoviệc sử sách ca tụng công lao của thái thú Sỹ Nhiếp mở mang việc học tại GiaoChỉ và một số ít đoạn nói về một vài người Việt đỗ đạt và làm quan ở phương Bắc, hoàn toàn có thể nói trong thời Bắc thuộc đã có một những tầng lớp người Việt biết chữ [ 3 ]. Hơnnữa, cùng với việc gia nhập đạo Phật, chắc như đinh chùa chiền phải là nơi dạy chữđể giảng dạy những nhà sư và truyền bá kinh kệ. Bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ hai, cùng với việc thiết kế xây dựng và bảo vệ đấtnước, tổ tiên ta đã dành nhiều sức lực lao động tăng trưởng nền giáo dục dân tộc bản địa. Cơ sởgiáo dục tiên phong của nhà nước phong kiến Nước Ta ( được ghi nhận trong sửsách ) là Văn Miếu Thăng Long, do vua Lý Nhân Tông cho xây dựng vàonăm 1076. Sau này, triều Nguyễn đóng đô tại Phú Xuân, đã mở Quốc Tử Giámtại Huế. Ngày nay, Quốc Tử Giám Thăng Long được xem là trường ĐH đầutiên của Nước Ta. Sau khi mở mang việc dạy học ở kinh đô, từ từ nhà nướcphong kiến quan tâm đến việc tổ chức triển khai hoạt động giải trí giáo dục ở địa phương. Năm 1397, thời vua Trần Thuận Tông, triều đình cho đặt học quan ở những lộ, phủ lớn ( đơn vịhành chính tương tự với cấp tỉnh thời nay ) để lo việc giáo dục [ 3 ]. Đến thếkỷ XV – XVI, nền giáo dục Nước Ta đã tăng trưởng bùng cháy rực rỡ. Các phủ, lộ đều cótrường công [ 6 ]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân thời phong kiến, bên cạnh một sốlượng không nhiều những trường công, tại nhiều làng xã, đã có những mái ấm gia đình mờithầy đến ở trong nhà, dạy con em của mình mình và thanh thiếu niên trong làng. Nhà chủchịu nghĩa vụ và trách nhiệm chu cấp cho thầy. Như vậy, từ thời xưa dạy học đã là một nghề. Từ ngày độc lập đến kháng chiến thứ nhất thắng lợi ( 1945 – 1954 ) Sau khi nhân dân giành được chính quyền sở tại và công bố nền độc lập của đấtnước, ngay tại phiên họp tiên phong của nhà nước cách mạng lâm thời ( 3-9-1945 ), quản trị Hồ Chí Minh đã xác lập : “ chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm ” là ba trách nhiệm trọng điểm của nhà nước và nhân dân talúc đó [ 1 ]. Ngày 6-9-1945, Người đã gửi thư cho học viên nhân ngày khai giảngnăm học 1945 – 1946, chứng minh và khẳng định sự sinh ra của một nền giáo dục mới với sứmệnh ship hàng công cuộc giữ gìn độc lập và phục hưng quốc gia, trong đó chỉ rõmục đích học tập của thế hệ trẻ mà cũng là trách nhiệm kế hoạch của nền giáodục mới là làm cho “ giang sơn Nước Ta trở nên tươi đẹp ”, “ dân tộc bản địa Việt Namsánh vai với những cường quốc năm châu ” [ 1 ]. Song song với việc tổ chức triển khai để những trường Open, liên tục công việcgiảng dạy, học tập, Bộ Giáo dục cố gắng nỗ lực giúp nhà nước thiết kế cơ sở pháp lýcho chủ trương giáo dục của chính sách mới. Năm 1946, trong toàn cảnh phải tậptrung đối phó với mưu mô gây chiến của những thế lực thực dân, nhà nước đã banhành hai sắc lệnh : số 146 – SL và số 147 – SL. [ 1 ] Nội dung hầu hết của hai sắclệnh này là : ( i ) Khẳng định tôn chỉ của nền giáo dục nước nhà là phụng sự lý tưởngquốc gia và dân chủ ; ba nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục là : dân tộc bản địa, khoahọc, đại chúng. ( ii ) Xác định cơ cấu tổ chức của nền giáo dục mới, sau giáo dục ấu trĩ ( tiền họcđường ), có ba cấp học : Đệ nhất cấp, là bậc học cơ bản, triển khai trong 4 năm học. Đệ nhị cấp, có hai ngành : ( i ) ngành học tổng quát gồm hai bậc : bậc phổthông 4 năm và bậc chuyên khoa 3 năm ; ( ii ) ngành học trình độ, gồm haibậc : bậc thực nghiệm 1 năm và bậc chuyên nghiệp từ 1-3 năm ( tuỳ theo ban ). Đệ tam cấp, có ĐH ( gồm những ban : văn khoa, khoa học, pháp lý ) vàcao đẳng trình độ, sinh viên học tối thiểu 3 năm. Tiếp nối ĐH là những “ nghiên cứu viện ”. Song song với ba cấp học là ba cấp của ngành sư phạm, gồm sư phạm sơcấp, sư phạm tầm trung, sư phạm hạng sang. ( iii ) ấn định những pháp luật pháp lý để thực thi bậc học cơ bản : tất cảtrẻ em từ 7-13 tuổi đều hoàn toàn có thể đến trường, không phải trả tiền học và từ năm1950 sẽ là bậc học cưỡng bách. Giáo dục Nước Ta trong những năm quốc gia bị trong thời điểm tạm thời chia cắt-Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2 ) Ở miền BắcSau khi hoà bình được lập lại, trên miền Bắc, chính phủ nước nhà Nước Ta Dânchủ Cộng hòa đã tiếp quản giáo dục ở vùng mới giải phóng và tích cực chuẩn bịcho một cuộc cải cách giáo dục ( thứ hai ) trong toàn cảnh vừa hồi sinh kinh tế tài chính, thiết kế xây dựng miền Bắc vừa đấu tranh triển khai thống nhất nước nhà. Thông qua cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, hệ thống giáo dục phổthông 12 năm tại vùng mới được giải phóng và hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm ở vùng tự do đã được thống nhất thành hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm ( cấp I có 4 lớp, cấp II có 3 lớp, cấp III có 3 lớp ). Hệ thống này không ít môphỏng theo hệ thống giáo dục của Liên Xô lúc đó. Để cung ứng nhu yếu học tập của nhân dân, nhà nước chủ trương “ Tận lựcphát triển giáo dục phổ thông ”. Đến cuối kỳ kế hoạch 5 năm ( 1961 – 1965 ), mạnglưới trường học được lan rộng ra : phần đông những xã có trường cấp I ; hai hoặc ba xãcó một trường cấp II ; hầu hết những huyện có trường cấp III. Loại trường vừa dạytri thức đại trà phổ thông, vừa dạy kỹ thuật sản xuất sinh ra như trường đại trà phổ thông côngnghiệp ở thành phố, trường phổ thông nông nghiệp ở nông thôn, trường thanhniên dân tộc bản địa vừa học vừa làm ở những tỉnh miền núi. Thực hiện chủ trương củaChính phủ, ở hầu hết những xã trên miền Bắc, nhân dân xây dựng “ Ban bảo trợ họcđường ”, kêu gọi sức người, sức của thiết kế xây dựng những trường cấp I, cấp II, đề cửngười ở địa phương làm giáo viên, tự định mức góp phần để trả lương thầy, từđó Open hình thức trường dân lập. nhà nước pháp luật : giáo viên dân lập vàgiáo viên quốc lập hưởng mọi chủ trương, chính sách như nhau, chỉ khác tiền lươngcủa giáo viên dân lập do ngân sách địa phương đài thọ, có sự tương hỗ thích đángcủa nhà nước [ 1 ]. Ở miền NamTrong thời kỳ 1954 – 1975, ở vùng do chính quyền sở tại TP HCM trấn áp, cũng như về sau này ở vùng giải phóng, hoạt động giải trí giáo dục vẫn diễn ra để đápứng nhu yếu học tập của dân cư và đảm nhiệm công dụng huấn luyện và đào tạo nhân lực. Tuy nhiên, hoạt động giải trí giáo dục ở hai vùng có đặc thù riêng, thậm chí còn đốinghịch nhau. Ở vùng do chính quyền sở tại Hồ Chí Minh trấn áp, nền giáo dục chuyển dần từchỗ chịu ảnh hưởng tác động và ảnh hưởng tác động của nền giáo dục Âu Pháp sang chịu tác độngvà ảnh hưởng tác động của nền giáo dục Bắc Mỹ. Hệ thống giáo dục phổ thông trải quamột vài lần biến hóa, tuy nhiên vẫn theo cơ cấu tổ chức khung : tiểu học ( 5 năm ), trung họccấp thấp ( 4 năm ), trung học cấp cao ( 3 năm ) gồm nhiều ban. Ở vùng giải phóng, Bộ Giáo dục trong nhà nước cách mạng lâm thờimiền Nam Nước Ta đã phát hành chương trình đại trà phổ thông 12 năm, với loại sáchgiáo khoa khác hẳn sách giáo khoa dùng trong vùng tạm chiếm. Bộ chương trìnhvà sách giáo khoa này có nhiều nâng cấp cải tiến cả về nội dung và chiêu thức so vớichương trình và sách giáo khoa 10 năm ở miền Bắc [ 1 ]. Thực chất, chương trình giáo dục phổ thông còn có lớp vỡ lòng, dạy học sinh tập đọc, tập viết trước khi vào lớp1. 10T hời kỳ từ 1975 đến 1986 – Cuộc cải cách giáo dục lần thứ baTrong khi triển khai những trách nhiệm khẩn cấp trước mắt so với giáo dụcmiền Nam và liên tục tăng trưởng giáo dục ở miền Bắc, Đảng và nhà nước cũngkhẩn trương sẵn sàng chuẩn bị cho một cuộc cải cách giáo dục nhằm mục đích tiến tới một nền giáodục quốc dân thống nhất tương thích với kế hoạch tái thiết và tăng trưởng quốc gia. Ngày 11-1-1979, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hànhNghị quyết số 14 – NQ / TW về cải cách giáo dục, [ 1 ] [ 2 ] theo đó, những địnhhướng có tính nguyên tắc cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba này là : Về tiềm năng giáo dục : Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ chođến lúc trưởng thành nhằm mục đích tạo cơ sở khởi đầu cho con người tăng trưởng tổng lực ; thực thi phổ cập giáo dục toàn dân nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo triển khai 3 cuộc cáchmạng ( về quan hệ sản xuất, về khoa học – kỹ thuật và về văn hoá – tư tưởng ) ; huấn luyện và đào tạo và tu dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động tương thích yêucầu phân công lao động xã hội [ 1 ] [ 2 ]. Về nội dung giáo dục : Hướng vào việc “ Nâng cao chất lượng giáo dụctoàn diện ( đức, trí, thể, mỹ ), tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tậpthể, đủ sức gánh vác sự nghiệp thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân … ” [ 1 ] [ 2 ] Về nguyên tắc giáo dục : Yêu cầu học song song với hành, giáo dục tích hợp vớilao động, nhà trường gắn liền với xã hội [ 1 ] [ 2 ]. Về hệ thống giáo dục : Thay thế hệ thống đại trà phổ thông 12 năm ở miền Nam vàhệ thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới, trong đó, trường cấp I và trường cấp II được sáp nhập thành trường đại trà phổ thông cơsở ( chín năm ), đồng thời sẵn sàng chuẩn bị phân ban ở trung học phổ thông. 1.1.2. Hệ thống giáo dục Nước Ta hiện nayĐối với cơ cấu tổ chức hệ thống giáo dục, có nhiều cách xác lập khác nhau. Ởđây, khái niệm cơ cấu tổ chức hệ thống chỉ số lượng giới hạn trong phạm vi phân chia cấp lớp / trình độ đào tạo và giảng dạy kèm theo đó là một số ít chú ý quan tâm về phương pháp giáo dục, loại hìnhtrường và việc phân bổ trường / lớp trên những địa phận ( thường được gọi là mạnglưới trường / lớp ). Về cơ cấu tổ chức hệ thống giáo dục : Luật giáo dục 2005 lao lý tại Điều 4 “ Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thườngxuyên. ” Như vậy, giáo dục tiếp tục vừa hoàn toàn có thể hiểu như một phương thứcgiáo dục, vừa hoàn toàn có thể xem là một tiểu hệ thống / phân hệ của hệ thống giáo dụcquốc dân. Các cấp học và trình độ giảng dạy của hệ thống GD quốc dân gồm có : a ) Giáo dục mần nin thiếu nhi, có nhà trẻ và mẫu giáo ; 11 b ) Giáo dục phổ thông, có 3 cấp học : tiểu học ( từ lớp 1 đến lớp 5 ), trunghọc cơ sở ( từ lớp 6 đến lớp 9 ), trung học phổ thông ( từ lớp 10 đến lớp 12 ) ; c ) Giáo dục nghề nghiệp, gồm 3 trình độ huấn luyện và đào tạo : sơ cấp, tầm trung ( trungcấp chuyên nghiệp và tầm trung nghề ), cao đẳng ; d ) Giáo dục ĐH, gồm 4 trình độ đào tạo và giảng dạy : cao đẳng, ĐH, thạc sĩ, tiến sỹ. Về mạng lưới trường / lớp : Theo nguyên tắc phân bổ trường gần dân, đếnnay trên những địa phận dân cư đều có những cơ sở giáo dục. Cụ thể là : Mỗi xã, phường hoặc thị xã đều có tối thiểu một trường mần nin thiếu nhi, mộttrường tiểu học, một trường trung học cơ sở hoặc một trường liên cấp tiểu họcvà trung học cơ sở ( hình thức này chỉ có ở vùng kinh tế tài chính – xã hội đặc biệt quan trọng khókhăn ) ; phần nhiều những xã có TT học tập hội đồng. Mỗi Q., huyện, thị xã hoặc thành phố thuộc tỉnh đã có một hoặc một sốtrường trung học phổ thông, có một TT giáo dục tiếp tục củahuyện. Các thị xã, những Q. và nhiều huyện đã có TT kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp. Các huyện miền núi, hải đảo đều có một trường trung học cơ sởnội trú dành cho học viên dân tộc thiểu sốvà trường đại trà phổ thông có nhiều cấphọc. Mỗi tỉnh, thành phố thường trực TW đều có một trường trung họcphổ thông chuyên dành cho học viên xuất sắc trong việc học tập một trong cácmôn học, có trường tầm trung hoặc / và một trường cao đẳng ( junior college ), mộttrung tâm giáo dục liên tục của tỉnh. Các tỉnh miền núi và những tỉnh cónhiều huyện miền núi đều có trường trung học phổ thông nội trú dành cho họcsinh dân tộc thiểu số. Một số tỉnh và thành phố thường trực TW còn cótrường năng khiếu sở trường thẩm mỹ và nghệ thuật, trường năng khiếu sở trường thể dục-thể thao và trườngdành cho người khuyết tật, tàn tật. Yêu cầu về nội dung, chiêu thức giáo dục : Nội dung giáo dục phải bảo vệ tính cơ bản, tổng lực, thiết thực, hiệnđại và có hệ thống ; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân ; thừa kế vàphát huy truyền thống cuội nguồn tốt đẹp, truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, tiếp thu tinh hoa văn hóanhân loại ; tương thích với sự tăng trưởng về tâm sinh lý lứa tuổi của người học. Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, dữ thế chủ động, tưduy phát minh sáng tạo của người học, tu dưỡng cho người học năng lượng tự học, khả năngthực hành, lòng mê hồn học tập và ý chí vươn lên. Cấp trung học cơ sở12Hình 1.1 : Sơ đồ hệ thống giáo dục Nước Ta hiện nay131. 1.3. Cơ cấu quản trị giáo dục ở Nước Ta hiện nayKhái niệm quản trị được đề cập ở đây gồm có cả quản trị nhà nước vàquản lý trình độ. Quản lý nhà nước, ở cấp vĩ mô, gồm : kiến thiết xây dựng và chỉ đạothực hiện kế hoạch, quy hoạch, kế hoạch, chủ trương giáo dục ; phát hành và tổchức triển khai văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục ; thanh tra, kiểm tra việcchấp hành pháp luật về giáo dục [ 4 ]. Hình 1.2 : Sơ đồ cơ cấu tổ chức quản trị giáo dục Việt NamTheo Luật Tổ chức cơ quan chính phủ, Luật Giáo dục và sự phân công của Chínhphủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo quản trị nhà nước về giáo dục tiền học đường, giáodục đại trà phổ thông, giáo dục ĐH và một phần giáo dục nghề nghiệp ( trung cấpchuyên nghiệp ) ; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản trị giáo dục nghềnghiệp ( trừ tầm trung chuyên nghiệp ). Theo Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Giáo dục và theosự phân cấp của chính phủ nước nhà, ủy ban nhân dân những cấp thực thi quản trị nhà nước, bảo vệ những điều kiện kèm theo về đội ngũ nhà giáo, kinh tế tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạyhọc của những trường công lập thuộc khoanh vùng phạm vi quản trị, phân phối nhu yếu nâng caochất lượng và hiệu suất cao giáo dục tại địa phương ; đồng thời, trấn áp những trườngngoài công lập trong việc triển khai những lao lý của pháp lý. Phạm vi quản lýtrong nghành nghề dịch vụ giáo dục của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và uỷ ban nhân dân cấphuyện được phân định như sau : cấp tỉnh quản trị những trường trung học phổ thông, 14 những trường tầm trung và trường dạy nghề, những trường cao đẳng của tỉnh, cáctrung tâm giáo dục tiếp tục của tỉnh ; cấp huyện quản trị những trường tiểuhọc, trung học cơ sở, TT kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp, TT giáodục tiếp tục và TT dạy nghề của huyện, Cơ quan chuyên môngiúp uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản trị về giáo dục là sở giáo dục và đào tạo và giảng dạy ; cơquan trình độ giúp uỷ ban nhân dân cấp huyện quản trị về giáo dục là phònggiáo dục và huấn luyện và đào tạo. Quản lý nhà nước về giáo dục : Nhà nước thống nhất quản trị hệ thốnggiáo dục quốc dân về tiềm năng, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêuchuẩn nhà giáo, quy định thi tuyển, hệ thống văn bằng, chứng từ ; tập trung chuyên sâu quản lýchất lượng giáo dục, triển khai phân công, phân cấp quản trị giáo dục, tăngcường quyền tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục. Vai trò và nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ quản trị giáo dục : Cán bộ quản trị giáodục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức triển khai, quản trị, điều hành quản lý những hoạt độnggiáo dục. Cán bộ quản trị giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nângcao phẩm chất đạo đức, trình độ trình độ, năng lượng quản trị và trách nhiệmcá nhân. Nhà nước có kế hoạch kiến thiết xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lýgiáo dục nhằm mục đích phát huy vai trò và nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ quản trị giáo dục, bảođảm tăng trưởng sự nghiệp giáo dục. 1.1.4. Mô hình HTTT quản trị giáo dục bậc tiểu học hiện tại ở Việt NamNhững người làm về giáo dục phổ thông cũng giống như xây một ngôinhà, trong đó giáo dục tiểu học là nền móng. Mục tiêu giáo dục của cấp tiểu họclà giúp học viên hình thành những cơ sở khởi đầu cho sự tăng trưởng đúng đắn vàlâu dài về đạo đức, trí tuệ, sức khỏe thể chất, nghệ thuật và thẩm mỹ và những kỹ năng và kiến thức cơ bản để học sinhtiếp tục học lên cấp trung học cơ sở. Nếu giáo dục phổ thông có chất lượng thấp, học viên “ rỗng ” kỹ năng và kiến thức cơ bản một cách hệ thống thì không hề nói xây dựngđược nền giáo dục có chất lượng tiên tiến và phát triển và văn minh. Do vậy, những năm gầnđây Đảng và nhà nước ta rất chăm sóc chú trọng đến giáo dục tiểu học. Cấp tiểu học gồm 5 lớp, thu nhận trẻ nhỏ từ 6 tuổi, nếu trẻ không lưu ban, bỏ học thì đến 11 tuổi sẽ tốt nghiệp tiểu học. Hệ thống trường tiểu học : Như vậy, hệ thống giáo dục bậc tiểu học là hệthống con của HTTT quản trị giáo dục hiện tại ở Nước Ta. Mô hình trường tiểu học được tổ chức triển khai theo những mô hình công lập ( làtrường mà cơ sở vật chất, ngân sách do nhà nước bảo trợ ), trường bán công ( làtrường của chính phủ nước nhà, nhưng nhà trường phải tự chủ về những khoản thu, chi ), trường trường dân lập, và tư thục ( Do cá thể hay một nhóm cá thể xin phép15thành lập và tự góp vốn đầu tư ). Các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục gọi chung là cơ sởgiáo dục ngoài công lập ). Trường tiểu học bán công, dân lập, tư thục gọi chunglà trường tiểu học ngoài công lập. Như vậy, hệ thống trường tiểu học được chiara thành hai mô hình chính là mô hình trường công lập và mô hình ngoài cônglập. Ngoài những trường tiểu học dành cho trẻ thông thường còn có những loạitrường tiểu học chuyên biệt như : Trường tiểu học dân tộc bản địa bán trú ; Trường tiểuhọc dân tộc bản địa nội trú ; Trường tiểu học dành cho trẻ nhỏ bị thiệt thòi ; Trường tiểuhọc dành cho trẻ nhỏ tàn tật. Cơ sở giáo dục tiểu học khác gồm : Lớp tiểu học mái ấm gia đình do cha mẹ họcsinh có đủ năng lượng và trình độ trình độ tự nguyện xây dựng và trực tiếpgiảng dạy ; Lớp tiểu học linh động do những cá thể, tổ chức triển khai nhà nước và tổ chứcxã hội tự nguyện xây dựng cho những trẻ nhỏ không có điều kiện kèm theo theo học ở cáctrường, lớp chính quy ; Lớp tiểu học dành cho trẻ nhỏ bị thiệt thòi, trẻ nhỏ tàn tật. Về quản lí nhà nước : Hệ thống giáo dục phổ thông ở nước ta nói chungvà hệ thống giáo dục Tiểu học nói riêng, được quản trị phân cấp theo ngành dọc. Mỗi cấp quản trị đều có nhu yếu thông tin quản trị đơn cử, Bộ là cơ quan quản lýgiáo dục cấp cao nhất, là cơ quan của nhà nước, triển khai công dụng quản lýnhà nước về giáo dục và huấn luyện và đào tạo, đề ra những chủ trương, chủ trương và kiểmtra, thanh tra, … dưới Bộ là cấp địa phương như những Sở giáo dục, mỗi Sở giáodục lại quản trị những Phòng giáo dục thường trực sở và cấp thấp nhất là những trường. Cấp địa phương có nghĩa vụ và trách nhiệm thực thi và báo cáo giải trình tình hình thực thi những chỉ đạocủa cấp trên. Hình 1.3 : Mô hình quản trị ngành của nhà trườngNhư vậy, những Trường tiểu học ( công lập hoặc ngoài công lập ) do PhòngGiáo dục và Đào tạo quản trị, chỉ huy trực tiếp. Các cơ sở giáo dục tiểu học khácđược một trường tiểu học công lập bảo trợ và quản trị theo quyết định hành động của Chủ16tịch Uỷ ban nhân dân Q., huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ( sau đây gọichung là cấp huyện ) trên cơ sở đề xuất của Trưởng Phòng Giáo dục và Đào tạo. 1.1.5. Đánh giá những thuận tiện, khó khăn vất vả và năng lực phân phối yêu cầuquản lý của hệ thống giáo dục bậc tiểu học Việt nam hiện nayTrong nhiều năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan trọng chăm sóc tới sựnghiệp tăng trưởng Giáo dục và Đào tạo ( GD&ĐT ). Giáo dục và đào tạo và giảng dạy được coilà sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân. Cùng với Khoa họcvà Công nghệ, GD&ĐT là tác nhân quyết định hành động việc tăng trưởng kinh tế tài chính và pháttriển xã hội. Ngoài việc kêu gọi sự góp phần của nhân dân, đa phần là so với những giađình có điều kiện kèm theo và ở những khu vực thuận tiện, trong những năm thay đổi vừa mới qua, nhà nước không ngừng tăng ngân sách giáo dục. So với những ngành khác, giáodục đã được ưu tiên. Cùng với việc ngân sách giáo dục không ngừng tăng lên, cơ cấu tổ chức tiêu tốn công cho những cấp học và trình độ đào tạo và giảng dạy cũng đã đổi khác theohướng tăng Phần Trăm chi cho giáo dục phổ thông, giáo dục tiền học đường ( gọichung là khối giáo dục ) và giảm Tỷ Lệ chi cho giáo dục nghề nghiệp, giáodục ĐH ( gọi chung là khối huấn luyện và đào tạo ) biểu lộ quan điểm của chính phủ nước nhà, ưutiên cho giáo dục cơ sở và giáo dục ở địa phận kinh tế tài chính – xã hội khó khăn vất vả, vùng cưtrú của những dân tộc thiểu số. Quán triệt quan điểm GD&ĐT là quốc sách số 1, để tạo sự chuyểnbiến cơ bản, tổng lực trong tăng trưởng sự nghiệp giáo dục, trước hết cần phải đổimới cơ bản công tác làm việc quản trị giáo dục. Để quản trị tốt những hoạt động giải trí xã hội cầnphải có công cụ và phương tiện đi lại, mà một trong số những công cụ hữu hiệu đó là hệthống thông tin quản trị. Ngày nay, không ai dám phủ nhận vai trò của Công nghệ thông tin ( CNTT ). Công nghệ thông tin đã trở thành ngành kinh tế tài chính mũi nhọn, có tốc độphát triển cao và được ứng dụng thoáng rộng trong mọi nghành. Và ứng dụng củanó trong quản trị giáo dục từ lâu đã không còn là việc làm mới lạ, nó là côngcụ đắc lực tương hỗ thay đổi giải pháp giảng dạy, học tập và tương hỗ đổi mớiquản lý giáo dục, góp thêm phần nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao và chất lượng giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống giáo dục tiểu học có qui mô lớn, được phân bổ rộng khắp trên mọi miền của quốc gia. Nhưng ở bậc học này, dođặc thù tiềm năng và quản trị giáo dục, việc làm này có vẻ như đang đi nhữngbước khởi đầu. Từ thực tiễn ở những địa phương ( những tỉnh ) cho thấy, mặc dầu còn có nhiềukhó khăn ( như cơ sở vật chất nghèo nàn, giáo viên tin học nói riêng, và giáo viêntiểu học có hiểu biết về CNTT để ứng dụng được trong giảng dạy và quản trị vẫn17còn hạn chế, … ), nhưng việc ứng dụng công nghệ thông tin ( CNTT ) vào quản lýgiáo dục ở bậc tiểu học đã được một số ít địa phương mạnh dạn tiến hành, nhưngcũng chỉ tập trung chuyên sâu ở 1 số ít hoạt động giải trí : soạn thảo văn bản, báo cáo giải trình, quản lýđiểm, quản trị học viên, phong cách thiết kế giáo án điện tử mà chưa được tổ chức triển khai mộtcách có hệ thống. Số trường tiểu học sử dụng CNTT để quản trị hồ sơ, thời khóabiểu, điểm kiểm tra của giáo viên và học viên cũng mới chỉ tập trung chuyên sâu ở cácthành phố lớn : TP. Hà Nội 270 / 273 trường, TP Hồ Chí Minh hơn 300 trường / 439 trường, Quảng Ninh 102 / 157 trường, hoặc ở những trường đóng tại thị xã, trungtâm huyện. Việc vận dụng những thành tựu của CNTT vào quản trị không chỉ hạn chếở những cấp địa phương, mà ngay tại Bộ giáo dục và Đào tạo cũng vẫn chưa cómột hệ thống thông tin quản lý và vận hành, và thu thập dữ liệu về giáo dục tiểu học mộtcách chi tiết cụ thể và chính thức từ những Phòng giáo dục và Sở giáo dục, cũng như cácphân tích dữ liệu cụ thể ở cấp TW. Nhiều thông tin quản trị về giáo dụcbậc tiểu học hiện được tàng trữ trên khắp Nước Ta. Thông tin này về hàng chụctriệu học viên, hàng triệu giáo viên và cán bộ và hàng vạn trường học và những cơsở giáo dục khác. Bộ cũng chưa sử dụng hệ thống kho tài liệu và đang tổng hợp thông tin vàdữ liệu một cách thủ công bằng tay. Công cụ tích lũy hầu hết là những phiếu tìm hiểu, đượcnhập bằng tay, chưa được vi tính hóa và gửi qua đường công văn. Phần lớn dữliệu được tích lũy và tàng trữ bằng hệ thống văn bản sách vở. Các công cụ CNTTđơn giản như bảng tính ( excell ) cũng được sử dụng thoáng đãng nhằm mục đích tàng trữ thôngtin quản trị quan trọng. Các nhà quản trị những cấp cho biết, những hệ thống hiện naykhông tàng trữ được toàn bộ những thông tin thiết yếu để tương hỗ công tác làm việc quản trị. Khi cần số liệu để Giao hàng nhu yếu quản trị, phân chia nguồn lực và lậpchính sách, ví dụ như lập kế hoạch và dự thảo ngân sách, nghiên cứu và điều tra và phântích chủ trương, giám sát và nhìn nhận, phân chia kinh tế tài chính cho những trường, … mà sốliệu này không có sẵn. Bộ giáo dục phải gửi những phiếu tìm hiểu về Sở giáo dục, Sở lại gửi về Phòng giáo dục, cán bộ phòng lấy thông tin từ Hiệu trưởng cáctrường Tiểu học ( Trong đó có rất nhiều điểm trường ở miền núi như tỉnh HàGiang, Cao Bằng, Sơn La, … hiệu trưởng từ điểm trường chính đến điểm trườnglẻ phải đi cả ngày mới tới, và phải đi bộ ) rồi gửi lên Sở qua đường công vănhoặc qua thư điện tử. Cuối cùng, Chuyên viên của Bộ phải tổng hợp số liệu củacác Sở, việc làm này cũng lại phải nhập bằng tay. Công đoạn này rất tốn kémthời gian, ngân sách và công sức của con người, không những thế nhiều lúc số liệu cũng chưa chínhxác và khá đầy đủ. Nhiều khi, số liệu chuyển lên đến Bộ thì đã muộn so với dự kiến. 18T hu thập dữ liệu ở Bộ được triển khai rời rạc. Các đợt tích lũy dữ liệuthường xuyên và thu thập dữ liệu khi có nhu yếu phát sinh, rồi những đơn vị chức năng khácnhau thường trực Bộ cũng tiếp tục thu thập dữ liệu Giao hàng cho mục đíchriêng của mình. Đôi khi, hoạt động giải trí tích lũy này chồng chéo với những hoạt độngkhác. Nhiều hoạt động giải trí thu thập dữ liệu khác nhau như vậy dẫn tới khối lượngcông việc rất lớn, đặc biệt quan trọng là so với cán bộ quản trị những trường, phòng giáo dục. Các nhu yếu về tài liệu và định nghĩa về tài liệu thường hơi khác nhau nên gâyrất nhiều khó khăn vất vả cho những trường. Nó dẫn tới sự không thống nhất trong cácbáo cáo vì những tài liệu được tích lũy không thích hợp với nhau. Từ năm 2002 đến 2004, dự án Bất Động Sản Hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo ( SMoET ) đã được thực thi trải qua nguồn hỗ trợ vốn của Ủy ban châu Âu ( EC ). SMoET đãxây dựng được một hệ thống tích lũy những thông tin cơ bản về nhà trường, gọi làEMIS ( Education Management Information System ), tạo ra những báo cáo giải trình tổnghợp thống kê và những chỉ số giáo dục để giúp chỉ huy Bộ trong việc đưa ra cácquyết định kế hoạch về kế hoạch tăng trưởng giáo dục. Tuy nhiên, ứng dụng này đã thể hiện 1 số ít hạn chế, đáng chú ý quan tâm nhất là : ( i ) cấu trúc tài liệu chưa được tối ưu ; ( ii ) ứng dụng cơ sở tài liệu sử dụng ở cấptỉnh phức tạp và khó để hoàn toàn có thể duy trì và sử dụng, hiện chỉ có một số ít tỉnh sửdụng ; ( iii ) ứng dụng cơ sở tài liệu cấp TW chưa từng được sử dụng bởiBộ GD&ĐT và tác dụng là không có cơ sở tài liệu về EMIS cấp vương quốc sống sót. Dự án giáo dục Tiểu học cho trẻ nhỏ có thực trạng khó khăn vất vả ( PEDC ), vớikinh phí của Ngân hàng quốc tế, được tiến hành từ giữa năm 2003 đến nay, đãphát triển một hệ thống thông tin dựa trên hệ thống thông tin EMIS của SMoET, với mục tiêu tương tự như mục tiêu của ứng dụng EMIS, hệ thống thông tin củaPEDC chỉ dành riêng cho tiểu học, và đã được tiến hành trên 62 tỉnh thành củatoàn quốc. Bảng hỏi của ứng dụng EMIS của dự án Bất Động Sản PEDC được kiến thiết xây dựng với sựphối hợp ngặt nghèo từ những cán bộ của Vụ Kế hoạch-Tài chính và Vụ Giáo dụcTiểu học Bộ GD&ĐT. Dữ liệu trong ứng dụng này gồm có những thông tin cótrong ” hồ sơ trường “. Hồ sơ trường là một tập hợp tài liệu ở dạng tổng hợp, gồmcác thông tin chung về học viên tiểu học theo 3 thời kỳ ( đầu, giữa và cuối nămhọc theo giới tính, dân tộc bản địa và độ tuổi ) ; Các thông tin về điểm trường, Cơ sở vậtchất ( CSVC ), trang thiết bị, tài liệu giảng dạy, và cán bộ giáo viên. Các thông tinnày được tích lũy mỗi năm một lần. Điểm mạnh của hệ thống này là những chỉ sốvề mức chất lượng tối thiểu, những chỉ số về trường học hiện đã được chấp nhậnBáo cáo ‘ Chương trình kiến thiết xây dựng năng lượng thống kê giáo dục ’ : do những chuyên gia thuộc ViệnThống Kê của UNESCO do EC hỗ trợ vốn kiến thiết xây dựng, báo cáo giải trình dự thảo tháng 5 năm 2005.19 như những chuẩn cho Vụ Kế hoạch – Tài chính nhìn nhận mức chất lượng trườnghọc, và nó còn được dùng để phân phối những thông tin cho nhiều đơn vị chức năng quản trị cóliên quan như Vụ tiểu học, Ngân hàng quốc tế, … Phần mềm EMIS của dự án Bất Động Sản SMoET và dự án Bất Động Sản PEDC, mặc dầu được mangtên là Hệ thống thông tin quản trị giáo dục nhưng chưa được phong cách thiết kế như mộtcông cụ quản trị rất đầy đủ tổng thể những hoạt động giải trí của trường học, mà chỉ đơn thuần làmột công cụ tích lũy định kỳ những báo cáo giải trình thống kê và những chỉ số giáo dục. Điểmyếu hệ thống này là kiến thiết xây dựng ứng dụng trên cơ sở tài liệu Access, với giao diệnVisual Basic, phong cách thiết kế cơ sở tài liệu chỉ lưu giữ được tài liệu của từng năm họcmột, và được thiết lập trên từng máy tính riêng không liên quan gì đến nhau. Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, cónhiệm vụ thiết kế xây dựng và tăng trưởng tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và nghệ thuật và thể chấtcủa trẻ nhỏ, nhằm mục đích hình thành cơ sở bắt đầu cho sự tăng trưởng tổng lực nhân cáchcon người Nước Ta. Vấn đề trăn trở không dễ khắc phục trong nay mai của giáo dục tiểu học, là vẫn còn sống sót quá nhiều điểm trường lẻ, theo tìm hiểu của Dự án Giáo dụcTiểu học cho trẻ nhỏ có thực trạng khó khăn vất vả ( PEDC ) năm học 2007 – 2008, thìnước ta có 38.834 điểm trường ( trong đó có 15.602 điểm trường chính và 23.241 điểm trường lẻ ) ; năm học 2008 – 2009 có 37.796 điểm trường ( trong đó điểmchính là 15.747, điểm trường lẻ là 22.049 ). Thực tế, những yếu kém của bậc họcnày tập trung chuyên sâu ở những điểm lẻ. Lý do bởi nhiều mái ấm gia đình không đủ điều kiện kèm theo chocon em đi học, dân cư ở nhiều vùng, miền có điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội khókhăn, địa hình phức tạp, sống thưa thớt, việc đi lại của học viên rất khó khăn vất vả ; cơsở vật chất ship hàng dạy học thiếu thốn, giáo viên thiếu, lại ít có điều kiện kèm theo giaolưu trao đổi kinh nghiệm tay nghề, nâng cao trình độ trình độ và tiếp xúc với những ứngdụng công nghệ tiên tiến, … 1.1.6. Yêu cầu của hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậc tiểu học Việt Namtrong hiện tại và tương laiTiểu học là bậc học tiên phong trong hệ thống giáo dục phổ thông. Quan tâmchăm lo, tạo điều kiện kèm theo tổng lực cho bậc học này sẽ tạo nền móng vững chãi lâudài cho cả hệ thống giáo dục nói chung. Phân tích về quy mô quản trị giáo dục lúc bấy giờ, hầu hết những nhà nghiêncứu giáo dục tại Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục ( Bộ GD-ĐT ) đều có chungmột đánh giá và nhận định : Bước vào thế kỷ 21, toàn thế giới hóa đã thôi thúc giáo dục Việt Namphát triển theo khuynh hướng hội nhập và cạnh tranh đối đầu với nhiều mô hình đào tạongoài công lập, trong khi đó phương pháp quản trị giáo dục vẫn mang tính hành20chính bao cấp. Việc ứng dụng của khoa học và công nghệ tiên tiến vào quản trị vẫn chưađược vận dụng thoáng rộng, còn thể hiện nhiều yếu kém và hạn chế. Chúng ta đã nỗ lực thay đổi, nhưng hiệu quả chưa được như mong đợi. Theo tôi, một trong những nguyên do là tất cả chúng ta chưa tìm ra quy mô quản lýphù hợp. Hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậc tiểu học ở Nước Ta theo tìnhhình chung đó đã và đang chưa phân phối được nhu yếu thay đổi và chưa đủ nănglực tương hỗ việc ra quyết định hành động cho chỉ huy ngành giáo dục một cách thật hiệuquả. Vì vậy, việc thiết kế xây dựng một chuẩn chung, xác lập những nhu yếu tối thiểu vềdữ liệu cho công tác làm việc quản trị và lập kế hoạch, hợp thức hóa những hoạt động giải trí thuthập tài liệu, bớt đi những hệ thống đang quản lý và vận hành song trùng, nâng cao độ tin cậycủa tài liệu là thiết yếu. Giải pháp cho những yếu tố trên là phải thiết kế xây dựng hệ thống thông tin liên cấpđược bắt nguồn từ cấp thấp nhất là trường học và liên thông lên những cơ quanquản lý giáo dục cấp trên : Phòng – Sở – Bộ, ship hàng cho việc quản trị giáo dụcbậc tiểu học tại Nước Ta đang trở thành một yên cầu cấp bách. Hệ thống này có công dụng thống kê như tích lũy, tàng trữ, tổng hợp, cungcấp những số liệu giáo dục kịp thời và an toàn và đáng tin cậy. Nó sẽ quản trị hàng loạt những thông tinchung về trường học như :  Con người ( giáo viên, học viên ).  Thông tin về khối lớp và lớp học.  Trang thiết bị, cơ sở vật chất.  Mối quan hệ giữa nhà trường và hội đồng.  Tài liệu giảng dạy. Đồng thời, hệ thống này còn tích hợp những phân hệ quản trị giáo dục chi tiếtđến từng nghành nghề dịch vụ như : 1. Quản lý tài chính của nhà trường : Quản lý những khoản thu, chi, ngân sáchnhà nước, … gia tài cố định và thắt chặt của nhà trường. 2. Quản lý Học sinh : Quản lý những thông tin đến từng hồ sơ học sinh như sơyếu lý lịch, thực trạng sức khỏe thể chất ; Quản lý điểm, môn học, chất lượng, hạnh kiểm, thương hiệu, tác dụng kiểm tra và thi của từng học kỳ, hay thi học viên giỏi cáccấp, … ; Quá trình học tập của học viên trong suốt bậc học tiểu học : nghỉ học, họcsinh chuyển đi, chuyển đến, lên lớp, lưu ban, bỏ học, khen thưởng, kỷ luật, … 3. Quản lý nhân sự nhà trường : Quản lý những thông tin cụ thể đến từng hồsơ cán bộ, giáo viên, … ; Quản lý việc thuyên chuyển cán bộ ; Quản lý lương ; Quátrình đào tạo và giảng dạy, tu dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, … 214. Quản lý việc làm giảng dạy của nhà trường : Quản lý thời khóa biểu : Tạo thời khóa biểu cho lớp học, cho giáo viên theo tuần, học kỳ của năm học ; Theo dõi, lập kế hoạch đổi khác giảng dạy ; Quá trình triển khai và chất lượnggiảng dạy. 1.2. Định hướng khắc phục1. 2.1. Định hướng về chính sách chủ trương trong quản trị giáo dụcQuản lý giáo dục : Phân cấp, tăng cường tự chủ và nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội : Bên cạnh việc góp thêm phần tạo ra những thành công xuất sắc, công tác làm việc quản trị giáo dục, donhững thiếu sót của mình, cũng là một nguyên do quan trọng dẫn đến nhữnghạn chế, yếu kém trong nghành nghề dịch vụ giáo dục. Vì vậy, để tạo ra sự chuyển biến cơbản trong tăng trưởng giáo dục, cần phải tập trung chuyên sâu thay đổi công tác làm việc quản trị giáodục, xem đây là khâu cải tiến vượt bậc. [ 15 ] Vì chất lượng giảng dạy và học tập của nhà trường là nguồn gốc chủ yếutạo nên chất lượng của một nền giáo dục, đồng thời nhà trường cũng là nơi phảnánh vừa đủ nhất hiệu lực hiện hành và hiệu suất cao của công tác làm việc quản trị giáo dục nên trên cơsở phát huy quyền tự chủ và tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà trường, những cơ quanquản lý giáo dục cần có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ để công tác làm việc quản trị giáo dục bámsát trong thực tiễn của nhà trường, lắng nghe tiếng nói của nhà giáo, của cha mẹ họcsinh và xã hội từ đó có những quyết định hành động đúng đắn, tương thích và khả thi. Để đápứng nhu yếu này, cần khẩn trương hiện đại hoá công tác làm việc quản trị, nhanh chóngthực hiện tin học hoá để thiết lập kênh trao đổi thông tin hai chiều, kịp thời vàtin cậy giữa cơ quan quản trị giáo dục với nhà trường, mái ấm gia đình và xã hội cũngnhư giữa nhà trường, nhà giáo, cha mẹ và học viên. Đổi mới cơ bản chủ trương sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng phẩmchất và năng lượng thực tiễn. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng vàhiệu quả công tác làm việc quản trị, chú trọng quản trị chất lượng giáo dục. Tăng cườngthanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng và giám sát những hoạt động giải trí giáo dục. Thực hiện phân cấp, tạo động lực và tính dữ thế chủ động của những cơ sở giáodục. Tăng quyền tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà trường song song với việc hoànthiện chính sách công khai minh bạch, minh bạch, bảo vệ sự giám sát của những cơ quan nhànước, đoàn thế và xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thôngtrong quản trị giáo dục ở những cấp. 1.2.2. Định hướng về công nghệa. Những sống sót, thách thức22Mặc dù được nhà nước chăm sóc, tuy nhiên ứng dụng CNTT vào quản trị Nhànước của những cấp, những ngành nói chung, Bộ giáo dục nói riêng còn nhiều hạnchế, chưa có sự phối hợp giữa cải cách hành chính với ứng dụng CNTT.  Hạ tầng CNTT còn thiếu về số lượng và không đồng nhất.  Hệ thống CSDL còn manh mún, thiếu tập trung chuyên sâu, mức độ san sẻ chưa cao.  Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT còn hạn chế.  Công tác quản trị Nhà nước về CNTT còn nhiều chưa ổn.  Đầu tư cho tăng trưởng Công nghiệp CNTT còn nhỏ lẻ, phân tán, kém hiệuquả ; góp vốn đầu tư cho huấn luyện và đào tạo CNTT chưa được chăm sóc đúng mức. b. Nguyên nhân  Nhận thức của một số ít chỉ huy và công chức tại những cấp quản trị về vị trí, vai trò của CNTT chưa đúng mức.  Hệ thống giáo dục tiểu học giàn trải trên khắp mọi miền quốc gia, dân sốphân tán, diện tích quy hoạnh rộng, do vậy tăng trưởng hạ tầng gặp nhiều khó khăn vất vả.  Cơ chế, chủ trương ứng dụng và tăng trưởng CNTT chưa đơn cử, chưa hấpdẫn và chưa đồng điệu, chưa tạo được môi trường tự nhiên thuận tiện thôi thúc ứng dụngCNTT trong nghành nghề dịch vụ giáo dục.  Đầu tư cho ứng dụng CNTT vào quản trị giáo dục, hầu hết dựa vào ngânsách Trung ương, mặc dầu ngân sách chi cho giáo dục dù có đều đặn được tănglên, tuy nhiên vẫn còn quá rất ít so với nhu yếu tổ chức triển khai quy trình giáo dục ở mức bìnhthường.  Thiếu quy hoạch tổng thể và toàn diện và một lộ trình khoa học trong việc ứng dụng vàphát triển CNTT.c. Hướng khắc phục  Để thay đổi việc quản trị giáo dục bậc tiểu học trong tình hình chung hiệnnay cần tăng nhanh việc ứng dụng và tăng trưởng CNTT vào những cấp quản trị từ nhàtrường lên Bộ giáo dục, cần phải thiết kế xây dựng một chính sách chủ trương thỏa đáng.  Hoàn thiện chính sách, chủ trương, pháp luật : Rà soát và hoàn thành xong những vănbản quy phạm pháp luật, những chính sách, chủ trương nhằm mục đích tạo môi trường tự nhiên thuận lợihỗ trợ ứng dụng và tăng trưởng Công nghệ thông tin.  Thực hiện tốt những kế hoạch và quy hoạch : Xây dựng và triển khai chiếnlược, quy hoạch ngành nhằm mục đích sử dụng hiệu suất cao và tiết kiệm chi phí nguồn vốn góp vốn đầu tư.  CNTT là động lực, là công cụ quan trọng số 1 thôi thúc Công nghiệphóa-hiện đại hóa, do vậy cần nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của CNTT đốivới tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội và Giáo dục.  Ưu tiên góp vốn đầu tư tăng trưởng đồng nhất hạ tầng CNTT và truyền thông online, Internet. 23  Tăng cường năng lượng và hiệu suất cao quản trị nhà nước về CNTT.  Hoàn thiện chính sách chủ trương lôi cuốn góp vốn đầu tư, tương hỗ tăng trưởng và ứng dụngCNTT trong nghành nghề dịch vụ giáo dục.  Đẩy mạnh huấn luyện và đào tạo và tăng trưởng nguồn nhân lực CNTT.  Tăng cường hợp tác và link trong nước và quốc tế về tăng trưởng CNTT. 1.2.3. Xác định sáng tạo độc đáo và Yêu cầu kiến thiết xây dựng HTTT quản trị cung ứng yêu cầuđổi mới hệ thống quản trị giáo dục tiểu học Việt NamHiện nay, những hướng công nghệ tiên tiến đang ngày càng tăng trưởng, những công cụcủa chúng đã khá triển khai xong và đã Giao hàng khá tốt cho việc tăng trưởng một hệthống lớn. Quy trình nghiên cứu và phân tích và phong cách thiết kế một HTTT quản trị theo hướng cấutrúc là một trong những công nghệ tiên tiến đang được những chuyên viên chăm sóc và tindùng, đặc biệt quan trọng là ở Nước Ta. Từ những khó khăn vất vả, thuận tiện kể trên, đồng thời với tiềm năng thực hiệntin học hóa công tác làm việc quản trị. Đề tài dự kiến thiết kế xây dựng một hệ thống thông tinliên cấp được bắt nguồn từ cấp thấp nhất là trường học và liên thông lên những cơquan quản trị giáo dục cấp trên : Phòng – Sở – Bộ. Do trong khuôn khổ thời hạn ngắn, trình độ trình độ, kinh nghiệm tay nghề vàkiến thức của bản thân còn hạn chế, nên trong bước đầu luận văn chỉ nghiên cứu và phân tích, thiếtkế và kiến thiết xây dựng hệ thống thông tin quản trị giáo dục bậc tiểu học có chức năngthống kê, quản trị hàng loạt những thông tin chung về trường học, sau đó sẽ rút kinhnghiệm để triển khai xong và lan rộng ra ra những phân hệ quản trị giáo dục còn lại của hệthống. Hệ thống thông tin quản trị Giáo dục bậc Tiểu học ( Primary EducationManagement Information System – PEMIS ) phải được quản lý và vận hành trên cả 4 cấp : Bộ ( MoET ), Sở ( DoET ), Phòng ( BoET ), Trường và phải phân phối một cách đầyđủ nhất nhu yếu quản trị thông tin và nhiệm vụ cho toàn bộ những đại diện thay mặt quản lýgiáo dục bậc tiểu học. Với tiềm năng như trên, luận văn sẽ tập trung chuyên sâu vào những yếu tố chính sau :  Nghiên cứu phương pháp luận và quy trình tiến độ nghiên cứu và phân tích phong cách thiết kế một HTTTquản lý thích hợp nhất cho giáo dục bậc tiểu học. Trên cơ sở đó sẽ thử nghiệmphát triển một HTTT phân phối những nhu yếu thay đổi đặt ra ở trên, sau đó sẽ rútkinh nghiệm để triển khai xong và lan rộng ra hệ thống lớn hơn tăng trưởng mới những hệthống tương tự như trong ngành.  Xây dựng một hệ thống như chính sách mã hóa để mỗi trường / điểm trường cómột mã duy nhất. Nếu phong cách thiết kế một cách linh động, những hệ thống CNTT sẽ khônglàm mất đi quyền lợi của nó trong một thiên nhiên và môi trường mà những khuôn khổ và quy địnhpháp lý liên tục biến hóa. 24  Xây dựng CSDL phân tán theo từng cấp, và tại mỗi cấp sẽ tàng trữ dữ liệuphù hợp với đặc tả tài liệu của mình. Tại cấp Phòng sẽ tàng trữ tài liệu của cáctrường tiểu học thuộc Phòng quản trị, cấp Sở sẽ lưu giữ tài liệu của toàn bộ cáctrường tiểu học trong toàn tỉnh / thành. Và cấp Bộ sẽ lưu giữ tài liệu của tổng thể cáctrường tiểu học trong toàn nước. Quy trình tập hợp thông tin từ điểmtrường / trường lên phòng giáo dục, rồi lên Sở GD-ĐT và nộp về Trung ương ( BộGD-ĐT ) là khoa học, không bị tổng quát hóa và lược bỏ qua những cấp khác nhau ; được cho phép những cấp quản trị đều có năng lực tiếp cận với thông tin có cùng mứcđộ cụ thể gốc khi tìm hiểu ( chi tiết cụ thể nhất ), chỉ khác nhau ở khoanh vùng phạm vi và phươngthức khai thác theo những Lever. Hệ thống giáo dục ở nước ta được quản trị trải qua nhiều cấp. Mỗi cấpquản lý đều có nhu yếu thông tin quản trị đơn cử. Do vậy, phải kiến thiết xây dựng một hệthống cở sở dữ liệu ( dạng quan hệ ) liên thông 4 cấp, mà ở đó những phiên bản phầnmềm ở những cấp đều hoàn toàn có thể quản lý và vận hành và khai thác tài liệu giáo dục dùng chungphục vụ cho tiến trình ra quyết định hành động. Hiện tượng cát cứ thông tin vẫn đang làhiện tượng thông dụng ở tổng thể những cấp quản trị. Mỗi cơ quan, đơn vị chức năng cất giữ thôngtin riêng của mình thay vì san sẻ với những đơn vị chức năng khác. Cơ sở tài liệu trung tâmsẽ là nỗ lực nhằm mục đích xử lý yếu tố này, tài liệu tối thiểu cần gồm có là những dữliệu nổi bật về học viên, giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị, v.v. của nhàtrường. 25CH ƯƠNG 2 : GIỚI THIỆU QUY TRÌNH PHÂN TÍCH THIẾT KẾHỆ THỐNG THÔNG TIN HƯỚNG CẤU TRÚCHiện nay có hai giải pháp nghiên cứu và phân tích phong cách thiết kế hệ thống cơ bản đangđược sử dụng là giải pháp hướng cấu trúc và giải pháp hướng đối tượng người tiêu dùng. Mỗi chiêu thức có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, yếu tố mà tôiưu tiên khi lựa chọn một giải pháp nghiên cứu và phân tích phong cách thiết kế hệ thống là : không thay đổi, ítthay đổi, dễ sử dụng, hoàn toàn có thể quy mô hóa một cách tổng quát nhất những yếu tố đặtra trong trong thực tiễn, có năng lực vận dụng cho lớp những bài toán ship hàng quản trị và cókhả năng chuyển thành chương trình sử dụng trong thực tiễn nhanh nhất. Trên cơ sở nhu yếu trên, tôi chọn giải pháp PT-TK hệ thống thông tintheo hướng có cấu trúc cho bài toán HTTT Quản lý giáo dục bậc tiểu học. 2.1. Khái quát về giải pháp nghiên cứu và phân tích và phong cách thiết kế hướng cấu trúc2. 1.1. Các ưu điểm của PT-TK hướng cấu trúc so với những giải pháp khácPhân tích và phong cách thiết kế HTTT dựa trên máy tính mở màn từ những năm 1950. Những công nghệ tiên tiến mới về phần cứng không ngừng tăng trưởng cùng với nhiều vấnđề mới của thực tiễn luôn phát sinh trong quy trình tăng trưởng HTTT. Điều này kéotheo cách tiếp cận PT_TK hệ thống cũng đổi khác một cách tương thích. So sánhvới nhiều cách tiếp cận khác, cách tiếp cận hướng tài liệu có những đặc thù nổitrội sau : 1. Về tính lịch sử vẻ vang : Cách tiếp cận theo hướng tài liệu gắn liền với sự pháttriển của một công nghệ tiên tiến mới là công nghệ tiên tiến về cơ sở tài liệu ( CSDL ), đặc biệtnăm 1970 quy mô quan hệ của Codd sinh ra. 2. Về thực chất : Tiếp cận khuynh hướng tài liệu là một kế hoạch tổng thểphát triển HTTT mà tập trung chuyên sâu vào việc tổ chức triển khai những tài liệu một cách lý tưởnghơn là nghĩ đến việc sử dụng những tài liệu ở đâu và khi nào. 3. Về cấu trúc : Quan tâm bình đẳng đến 2 thành phần tài liệu và giải quyết và xử lý. Kết quả của hệ thống không chỉ là sự tự động hoá những quy trình giải quyết và xử lý mà cònbao gồm cả việc tổ chức triển khai tài liệu, nâng cao năng lượng của nhân viên cấp dưới và khả năngtruy nhập đến những tài liệu và thông tin. Chú ý rằng giải quyết và xử lý chính là quy trình biếnđổi thông tin nhằm mục đích 2 mục tiêu : một là sản sinh thông tin theo những thể thứcquy định, hai là trợ giúp quyết định hành động. Xử lý thường được thực thi theo 1 quy tắcquản lý nào đó và thường diễn ra theo một trật tự nhất định mà được gọi là thủ

Tin liên quan

Các trường xét học bạ ngành Công nghệ thông tin trong năm 2022

khoicntt

Review Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông Việt – Hàn (VKU) có tốt không?

khoicntt

Xin việc ngành Công nghệ thông tin – IT

khoicntt

Leave a Comment